Heinz Schütte – Năm mươi năm sau: Trăm hoa đua nở ở Việt Nam 1954-1960 (6)
30/03/2010 | 11:00 sáng | Chức năng bình luận bị tắt ở Heinz Schütte – Năm mươi năm sau: Trăm hoa đua nở ở Việt Nam 1954-1960 (6)
Category: Hồ sơ Nhân văn - Giai phẩm
Thẻ: Cải cách ruộng đất > Đại hội 20 ĐCS Liên Xô
Bản dịch của talawas
6. Những mâu thuẫn cơ bản của năm 1956
Càng ngày càng rõ rằng, những cải cách mà người ta chờ đợi sẽ không được thông qua, bởi vì, như Nguyễn Đình Thi đã giải thích trong Báo cáo đọc tại Hội nghị Văn nghệ toàn quốc lần thứ 2, năm 1957: “Nền văn nghệ dân tộc và nhân dân của chúng ta được sự lãnh đạo của Đảng tiền phong của giai cấp công nhân… Đảng lãnh đạo đã đem tới cho văn nghệ Việt Nam ánh sáng tư tưởng Mác-Lênin, soi rõ con đường phấn đấu để đổi mới xã hội, xây dựng con người mới Việt Nam. Đảng đã đoàn kết tập hợp mọi lực lượng văn nghệ Việt Nam thành một mặt trận ngày càng lớn mạnh. Đảng đã giới thiệu cho các nhà văn nghệ phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa, là phương pháp sáng tác tốt nhất.”[1] Như vậy, những đề xuất của Trần Dần đã đi ngược lại với đường lối của Đảng và thách thức tính độc quyền của nó.
Mục tiêu cao nhất của Đảng và chính phủ vẫn là sự thống nhất đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng (cuộc cách mạng này còn kéo dài tới năm 1975), và văn hóa cũng phải hoàn toàn phục vụ mục tiêu này. Sự lệch lạc về chính trị và lý tưởng sẽ tạo cơ hội cho kẻ thù lợi dụng. Hội nghị Trung ương 8 của Đảng Lao động Việt Nam năm 1955 đã thảo luận về “công tác chống gián điệp, chống phản bội; tăng cường công tác phòng gian, bảo mật. Và để phát triển cuộc đấu tranh này tại các đô thị, mọi người dân đều phải đăng kí hộ tịch. Các khóa học chỉnh đốn về chế độ bảo mật liên tục được tổ chức tại các xí nghiệp và các cơ quan Đảng, chính quyền, quân đội và dân sự.”[2] Sự tự do đi lại của dân chúng bị kiểm soát bởi chính sách hộ khẩu, và mỗi người đều bị quản lý bởi một quyển sổ lý lịch trong đó ghi rõ chi tiết tiểu sử bản thân và giai cấp của người đó.[3]
Tuy nhiên các văn nghệ sĩ và trí thức quân đội đã không chịu nhún, mà, cùng với các đồng nghiệp trong khối dân sự, họ đã cho xuất bản tạp chí Giai phẩm mùa Xuân tháng 3.1956. Giờ đây, những chỉ trích nhắm vào họ không chỉ dừng trong phạm vi tương đối an toàn của quân đội nữa, mà lan sang khối Đảng và khối dân sự, địa hạt quản lý của Tố Hữu (1920-2003), người được “thừa nhận là nhà thơ Việt Nam lớn nhất của thời đại”[4]. Tố Hữu là ủy viên Bộ Chính trị, nắm mảng tuyên giáo (tuyên truyền và giáo dục), một nhà thơ tiêu biểu cho thơ chính thống, một giáo hoàng văn nghệ, người đặt ra các chính sách, người canh gác việc thực hiện các chủ trương (thường do ông tự đặt ra), và như vậy, ông là một trong những người có quyền lực lớn nhất đất nước – một nhà tư tưởng sắt đá. Tố Hữu được xem là người thô bạo và không khoan nhượng về tư tưởng. Ở Hà Nội loan truyền câu chuyện, ông đã gọi các đồng nghiệp từng sát cánh bên ông trong kháng chiến lên và quạt: “Các anh viết cho ai? Viết cho tương lai hay viết cho công nông cách mạng? Sao các anh không ăn cho tương lai luôn đi!” Có thể thấy rằng, Tố Hữu, trong tư cách nhà thơ, đã cảm thấy bị xúc phạm ghê gớm như thế nào khi Trần Dần và Lê Đạt đầu năm 1955 đã phê phán gay gắt tập thơ Việt Bắc của ông, tập thơ được trao giải Nhất của Hội Văn học và Nghệ thuật Việt Nam năm 1954-55.[5]
Sau năm 1954, Đảng đã đi một bước quyết định trong việc kiểm soát lĩnh vực tư tưởng và qua đó khẳng định quyền lực độc tôn của mình. Trong khi 10 năm trước, Việt Minh đã nỗ lực kiểm soát lĩnh vực chữ viết và tri thức bằng chiến dịch xóa nạn mù chữ, thì nay Đảng đã dấn thêm bước nữa bằng cách kiểm soát trọn vẹn tất các các khâu trong hoạt động chữ viết và hình ảnh.[6]
Tuy nhiên, Ban lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã phải đón nhận những bất ổn do các vấn đề từ bên trong cũng như bên ngoài. Ở nông thôn, các vụ đấu tố trong cải cách ruộng đất, và kéo theo là các cuộc thanh lọc những “phần tử phản động” ra khỏi hàng ngũ Đảng và các tổ chức quần chúng, đã tạo ra sự đối lập và nổi loạn. Tình hình chính trị khắp nơi đều “căng thẳng”[7], và ngay cả những gia đình đã tham gia kháng chiến cũng bị đấu tố không thương tiếc. Nạn đói năm ấy lại khiến cho tình hình xã hội càng thêm xấu.[8] Đã không hề có tăng trưởng kinh tế, cũng như không hề có những tiến triển tích cực về chính trị và đạo đức xã hội từ cuộc cải cách ruộng đất, như Bộ trưởng Ngoại giao Ung Văn Khiêm kể với Đại sứ CHDC Đức tháng 10.1956.[9] Nhà thơ Phùng Quán miêu tả những gì ông chứng kiến tại nông thôn Bắc Bộ hồi đó:
Tôi đã đi qua
Nhiều xóm làng vùng Kiến An Hồng Quảng
Nước biển dâng lên ướp muối các cánh đồng
Hai mùa lúa không có một bông.
Phân người toàn vỏ khoai tím đỏ.
Tôi đã gặp
Những đứa em còm cõi
Lên năm lên sáu tuổi đầu.
Cơm thòm thèm độn cám với rau…[10]
Ngày 29.10.1956, nhân danh Đảng và Chính phủ, đại tướng Võ Nguyên Giáp, người hùng của Điện Biên Phủ, đã tự phê bình công khai. Tháng 11 bắt đầu chiến dịch sửa sai. Chủ tịch Hồ Chí Minh thừa nhận những sai lầm trong cải cách ruộng đất, mặc dù về tổng thể ông vẫn đánh giá cải cách ruộng đất là tích cực[11]. Ông đã khóc trước mặt mọi người, và điều đó đến nay vẫn mang lại cảm giác về sự chân thành và chăm lo cho dân chúng của vị cha già.[12] Nhưng mặc dù đã có những cử chỉ hòa giải như vậy, tình hình vẫn tiếp tục căng, đến nỗi tháng 11.1956 – cùng thời điểm với “những sự kiện Hungary” – người ta đã phải huy động quân đội để đàn áp đẫm máu những cuộc nổi loạn của nông dân ở một loạt các làng tại Nghệ An, quê hương Hồ Chí Minh. Tình thế nguy ngập được đánh dấu bằng cuộc viếng thăm của Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai tại Hà Nội ngày 18.11.1956.[13] Trước đó các văn nghệ sĩ và những thành viên khác của Hội Trí thức đã được phân công tới nông thôn để nắm tình hình cải cách ruộng đất. Tuy nhiên những kinh nghiệm ở nông thôn chỉ khiến họ thêm nghi ngờ vào hệ thống chính trị và hâm nóng không khí phản kháng ở đô thị.[14] Đường lối không tưởng của Mao Trạch Đông[15] thống trị miền Bắc, như Georges Baudarel chỉ rõ, đã dẫn tới các cuộc đấu tố trong cải cách ruộng đất và gây căm phẫn trong dân chúng, thách thức sự sống còn của chế độ. Điều này dẫn tới sự phân hóa trong hàng ngũ lãnh đạo thành hai phe: phe đa số theo đường lối giáo điều của Mao và phe thiểu số nghiêng về đường lối dân tộc thực dụng thân Moskva – phe của những người bị gọi là xét lại.
Năm 1956 là một năm nguy khốn của thế giới cộng sản. Ngay sau cái chết của Stalin năm 1953 đã bắt đầu hình thành một quá trình nới lỏng và đặt lại câu hỏi về chế độ toàn trị. Nhân Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ 20 tại Moskva, ngày 24.2.1956, trong một báo cáo mật, Tổng Bí thư Khrushchev đã công bố những tội ác của Stalin, và qua đó đánh đổ thần tượng được coi là bất khả xâm phạm cho tới khi đó. Cuối năm 1956, sau bài phát biểu của Mao về các mâu thuẫn, Bắc Kinh kêu gọi các trí thức của đất nước – những người có vẻ thực sự tin rằng những mâu thuẫn cơ bản đã được giải quyết, còn những mâu thuẫn khác, không cơ bản, thì có thể bàn luận công khai – phê phán thói quan liêu và những điểm yếu khác của chế độ. Điều này dẫn tới phong trào trăm hoa đua nở ngắn ngủi kiểu Trung Quốc dưới khẩu hiệu “Bách hoa tề phóng, bách gia tranh minh”[16] (Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng). Cuối tháng 6 xảy ra cuộc nổi dậy ở Poznan (Ba Lan) và đến tháng 10 thì xảy ra cuộc phản kháng ở Hungary, cuộc phản kháng sau đó đã bị dập tắt bởi quân đội của Khối Hiệp ước Warszawa.
Tất cả những sự kiện kể trên đã không phải không gây ra tiếng động nào ở Hà Nội. Đảng và Chính phủ đã tỏ ra rất lo lắng. Tháng 9.1956, trong “Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 10 (mở rộng) về việc sửa sai trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức Đảng, quần chúng”, Đảng đưa ra nhận định: “Ảnh hưởng bất lợi từ nông thôn đang lan ra thành thị và tấn công vào tất cả các giai cấp và tầng lớp nhân dân, miền Bắc cũng như miền Nam. Tình hình đòi hỏi chúng ta phải sửa chữa sai lầm dứt khoát, khẩn trương và khéo léo”[17]. Trong một cuộc gặp trực tiếp với Đại sứ CHDC Đức ngày 7.1.1957, Thủ tướng Phạm Văn Đồng giải thích: “Cách đây khoảng 3-4 tháng, … tình hình ở nông thôn rất nguy ngập, nguy hơn mức người ta dám thừa nhận”[18]. Từ khi hòa bình lập lại tháng 7.1954, đời sống vật chất của dân chúng đã không hề được cải thiện. Theo báo cáo của Đại sứ CHDC Đức, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói tiếp: “Sự bất mãn này được biểu hiện trong các cuộc tấn công về tư tưởng nhắm vào Chính quyền Nhân dân. Ở đây Chính quyền phân biệt rõ hai loại bất mãn: loại kẻ thù chống chế độ và loại lầm đường lạc lối. Đối với loại kẻ thù, Chính quyền luôn sẵn sàng dùng mọi phương tiện để tiêu diệt.”[19]
Nhưng phải làm gì với những trí thức bất mãn, đặc biệt là những trí thức văn nghệ sĩ trong nhóm Nhân văn-Giai phẩm? Nguyễn Đình Thi đã giải thích với ông Đại sứ CHDC Đức tại Hà Nội ngày 20.10.1956: “Chính nội bộ Bộ Chính trị Đảng Lao động vẫn còn chưa có quan điểm thống nhất về việc này, mặc dù đại diện Bộ Chính trị đã có vài cuộc trao đổi với nhóm Nhân văn rồi.”[20] Sự ngập ngừng này đã cho phép những người nổi loạn một khoảng thời gian đàm phán nhất định, tuy nhiên điều đó đã nhanh chóng chấm dứt với cuộc đàn áp ở Hungary. Tháng 11.1957, trong một cuộc họp của các đảng cộng sản cầm quyền tại Moskva, người ta đã đưa ra quyết định sẽ dập tắt tất cả các phần tử dao động. Một thời kỳ đóng băng mới lại hình thành[21]; Đại hội 20 Đảng Cộng sản Liên Xô và cuộc cải cách ruộng đất đã gieo sự hoài nghi vào các trí thức miền Bắc Việt Nam.
Quyền lãnh đạo của Đảng chỉ còn có thể duy trì bằng trấn áp. Nhưng giờ đây chính Đại hội 20 đã tự xác nhận những mầm mống hoài nghi vào chế độ. Ảnh hưởng của nó với Việt Nam, nhất là với giới trí thức, hoàn toàn không thể coi nhẹ. Thực ra, thoạt tiên đã không có ai đọc được bản báo cáo của Khrushchev, song những tin đồn – rò rỉ đây đó từ các nguồn sách báo tiếng Pháp hiếm hoi – khiến người ta nhận thức rằng điều mà họ hằng tin tưởng bấy nay đã không thể còn đúng nữa.[22] Và khi sự nghi ngờ đã được phép hiện diện ở Moskva thì hẳn nó cũng phải được phép ở Việt Nam. Bởi vậy ta có thể hiểu rằng, chủ nghĩa yêu nước xã hội chủ nghĩa dưới ảnh hưởng của Mao ở một số nhà các mạng trẻ tuổi, vốn đã bị nhạt đi phần nào do việc đọc các tiểu thuyết Xô-viết đầu những năm 50[23], qua Đại hội 20 ở Moskva, đã rẽ sang một nhánh khác, với những giải pháp khác về một xã hội xã hội chủ nghĩa-cộng sản chủ nghĩa.
Những quá trình cởi bỏ ảo tưởng này cũng tạo ra sự khích lệ mới. Bởi lẽ đối với nhiều người Việt Nam thì những sự thật được phơi bày về Stalin và hệ thống Xô-viết từ trong chính nội bộ của hệ thống là bằng chứng về khả năng đổi mới của chủ nghĩa cộng sản, với Liên Xô cũng như với Việt Nam. “Kinh nghiệm Liên Xô luôn là ánh sáng tự do đối với chúng tôi”, nhà sử học Đào Hùng đã nói như vậy[24]. Và Đào Hùng so sánh kinh nghiệm Liên Xô với kinh nghiệm Trung Quốc: Người ta không bao giờ chờ đợi sự giải phóng từ Trung Quốc, mà luôn luôn là sự đàn áp và ngu dân – dĩ nhiên đây cũng là một cách nói cách nói có phần biện hộ khi nhìn lại. Triết gia Trần Đức Thảo cũng đã viện dẫn tới phong trào tự do dân chủ do Đại hội 20 của Đảng Cộng sản Liên Xô phát động, và ông cho rằng những thắng lợi của phong trào này đòi hỏi Đảng Lao động Việt Nam cũng phải mở rộng tự do dân chủ. Trần Đức Thảo giải thích, từ sau hòa bình lập lại, những phê phán lãnh đạo của công nhân và trí thức là hoàn toàn đúng: người ta không phát huy được khả năng của mình do tệ quan liêu, bè phái và sùng bái cá nhân. Chẳng hạn trong lĩnh vực văn hóa, người trí thức cần tự do như khí trời để thở, và Đại hội 20 đã bóc trần những kết quả tai hại của tác phong lãnh đạo vi phạm hình thức tự do.[25] Đại hội 20 rút cuộc đã củng cố niềm tin cho các nhà ly khai, khiến họ không nhượng bộ trong những đòi hỏi của mình. Vài năm sau, ngày 23.8.1963, Tham tán Đại sứ CHDC Đức Klaus Matzke đã có buổi trao đổi với người đồng chí Võ Kung Ky, Cục trưởng Cục Hợp tác Quốc tế, Bộ Văn hóa, và (Xuân?) Thủy. Ngài tham tán được thông báo rằng: “Văn nghệ Việt Nam vẫn còn một số ảnh hưởng tiểu tư sản”. Matzke hỏi, phải chăng “những quan điểm độc hại đó có nguồn gốc từ Thái Lan hay miền Nam Việt Nam”? Và ông được trả lời: “Nguồn gốc những quan điểm độc hại này không phải là Thái Lan hay miền Nam, mà chính là Liên Xô”[26]. Đây quả là những mâu thuẫn cơ bản.
(Còn tiếp)
Bản tiếng Việt © 2010 talawas
[1] “Những nét chính về tình hình và công tác phát triển văn nghệ”. Bài phát biểu tại Hội nghị Văn nghệ lần thứ 2 năm 1957. Die Entwicklung der Kunst und Literatur in ihren großen Zügen. PolA, AA, MfAA/A 8582, tr.079-080.
[2] Đại sứ quán CHDC Đức, Hà Nội, 20.9.1955, phụ chú ghi chép cuộc họp giữa các đại sứ các nước xã hội chủ nghĩa anh em với Tổng Bí thư Đảng Lao động Việt Nam, đồng chí Trường Chinh, ngày 17.9.1955 – từ 15:00 tới 18:00, tại: PolA, AA, MfAA/A 8679, thẻ 3, tr.0229a.
[3] Baudarel/ Nguyen Van Ky 1997, tr.134.
[4] Anon 1978, tr.9. Cũng có thể tham khảo thêm Thürk 1970, tr.188.
[5] Xem Boudarel 1991b, tr.119 ff; Ninh 2002, tr.133-135; Tongas 1960, tr. 337, cũng như: Nguyen Tran Huan 1981, tr. 322-323 và tr.330-331. Về một tiểu sử (chính thức) của Tố Hữu (khoảng 1959) xem PolA, AA, MfAA/A 8494, tr.0137. Trò chuyện với Lê Đạt ở Hà Nội 4.10.2000. Ngoài ra thân phụ của họa sĩ Trần Duy.
[6] Trong một bản thảo không được công bố viết đầu những năm 1970, Rudy Schröder (tên Việt Nam là Nguyễn Đức Nhân) viết: “Khả năng đọc và viết được dùng quá tốt cho việc sản sinh, giữ gìn và truyền bá chủ nghĩa nô bộc. Tôi có lý do để lo sợ rằng Việt Nam ngày nay đã là một trong những nước mà quyền lực hoàn toàn chế ngự tri thức.” FMS, bản thảo Schröder, tr. 56.
[7] Đại sứ quán CHDC Đức gửi Bộ Ngoại giao, Hà Nội, 8.4.1957, tại: PolA, AA, MfAA/A 8383, tr.009.
[8] Tháng 9.1955, Tổng Bí thư Trường Chinh thông báo với các đại sứ “các nước anh em” như sau: “còn 91.000 người thất nghiệp, trong đó một số làm những việc thời vụ (hỏa xa, làm đường v.v.). Số người bị đói nặng giảm từ 1 triệu (tháng 3.1955) xuống còn 180.000 (tháng 7.1955). Sản lượng lương thực tháng 5 vượt mức đề ra (không có số liệu cụ thể). Tuy nhiên sản xuất công nghiệp và thương mại không đạt kế hoạch.” Điều khác thường trong thông báo này của Trường Chinh không phải là các con số (vì thực ra nó có đúng hay sai cũng không quan trọng), mà là sự thừa nhận có nạn đói lớn và những khó khăn lớn về kinh tế. Đại sứ quán CHDC Đức, Hà Nội, 20.9.1955, phụ chú ghi chép cuộc họp giữa các đại sứ các nước xã hội chủ nghĩa anh em với Tổng bí thư Đảng Lao động Việt Nam, đồng chí Trường Chinh, ngày 17.9.1955 – từ 15:00 tới 18:00, tại: PolA, AA, MfAA/A 8679, thẻ 3, tr.0229a.
[9] Đại sứ quán CHDC Đức gửi Trung ương Đảng Xã hội Thống nhất Đức (SED), Berlin. Hà Nội, 17.10.1956, tại: Lưu trữ Liên bang, Berlin (BArch), Ủy ban Trung ương Đảng SED, Ban đối ngoại Trung ương, DY30/IV2/20/217.
[10] Giai phẩm mùa Thu, 10.1956, trích theo Hoàng Văn Chí 1962, tr. 96.
[11] Fall 1967, tr. 304-306
[12] Về những giọt nước mắt chiến lược của Hồ Chí Minh, tham khảo Maneli 1971, tr. 154.
[13] Honey 1957, tr. 251. Tôi không tìm thấy trong các kho lữu trữ của CHDC Đức thông tin nào về chuyến thăm này.
[14] Ví dụ có thể xem Moise 1983, tr. 215 tt.
[15] Boudarel / Nguyen Van Ky 1997.
[16] Goldman 1967, tr. 160; tham khảo thêm MacFarquhar 1960.
[17] PolA, AA, MfAA/A 8380, tr. 056.
[18] Đại sứ Pfützner gửi Bộ Ngoại giao, 27.11.1956 và 8.1.1957, tại: PolA, AA, MfAA/A 8699, thẻ 3, tr.0233-0237, cũng như các bản tin từ báo Nhân Dân; Nt, tr. 0238-0244. Về con số những người bị giết, bị kết án tù hoặc bị giam cầm, xin xem: báo cáo của Đại sứ quán CHDC Đức gửi Ủy ban Trung ương Đảng Xã hội thống nhất (SED), Hà Nội 17.10.1956, tại Barch – Ủy ban Trung ương SED, DY 30/IV2/20/217.
[19] Đại sứ Pfützer gửi Bộ Ngoại giao CHDC Đức, Hà Nội 8.1.1957, tại: PolA, AA, MfAA/A 8699, thẻ 3, tr. 0234.
[20] Đại sứ Pfützner gửi Bộ Ngoại giao CHDC Đức, Hà Nội 5.11.1956, tại: PolA, AA, MfAA/A 842O, tr. 0028.
[21] Xem MacFarquhar 1960, tr. 303/304.
[22] Theo Bùi Tín 1999, tr.57, thì Trường Chinh, người tham dự Đại hội 20 Đảng Cộng sản Liên Xô ở Moskva, đã bị một cú sốc nặng (“en état de choc”) khi nghe bản Báo cáo mật của Khrushchev. Trường Chinh đã giấu kín bản báo cáo mật này trong cặp tài liệu của mình; khi trở về Hà Nội, ông không hề nói với ai về điều đã xảy ra mà chỉ báo cáo riêng với Hồ Chí Minh.
[23] Trò chuyện với Đào Hùng ở Hà Nội 10.10.2000.
[24] Nt, và Đào Hùng nói thêm: “Nhưng sau đó mọi sự từ từ thay đổi, và khi Breshnev lên thì hi vọng chấm dứt. Việc quân đội Liên Xô tràn vào Tiệp Khắc là dấu chấm hết với chúng tôi…”
[25] Trần Đức Thảo, Development of Democratic Freedom (Nỗ lực phát triển tự do dân chủ), Nhân văn số 3, 15.10.1956, tại: Lữu trữ Quốc gia Úc (NAA), A463/17, tr.20-21. Những tài liệu từ NAA được Thomas Engelbert vui lòng cho tôi sử dụng.
[26] Barch, Ủy ban Trung ương Đảng Xã hội Thống nhất Đức (SED): Phụ chú hồ sơ số 117/63, Đại sứ quán CHDC Đức, Hà Nội, 7.9.1963, DY 30-IV A 2/20/442. Sách vở nước ngoài hầu như không còn được xuất bản thời gian này; thao khảo: Pommerening (phóng viên thường trú của đài ADN ở Hà Nội), Vài suy nghĩ về chính sách hiện nay của Đảng Lao động (1.1963), tại: Barch, Lưu trữ ADN, DC 900-54.
Bình luận
Không có phản hồi (bài “Heinz Schütte – Năm mươi năm sau: Trăm hoa đua nở ở Việt Nam 1954-1960 (6)”)