Nguyễn Chính – Thư ngỏ gửi nhà văn Chu Lai
01/05/2010 | 12:10 sáng | 9 Comments
Category: Nhìn lại cuộc chiến 1954-1975
Thẻ: Chu Lai > Hoà giải dân tộc
Ngày 30/4/2010
Thưa ông!
Những ngày tháng Tư này người Việt Nam mình dù ở đâu, quốc nội hay hải ngoại, nếu không vô cảm đều đau đáu nghĩ về thân phận đất nước mình, dân tộc mình. Vâng! Tổ quốc Việt Nam yêu quý của chúng ta, sau khi thoát khỏi kiếp nô lệ kéo dài ngót 80 năm bởi thực dân, đế quốc, lại tiếp tục lao vào cuộc chiến huynh đệ tương tàn kéo dài nhất, đổ máu nhiều nhất, bi thương nhất, hậu quả tệ hại nhất trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc.
Nhân ngày 30 tháng Tư, nhìn lại cuộc chiến 1954 – 1975, trên các trang báo mạng có nhiều ý kiến khác nhau, thậm trí trái ngược nhau, nhưng đều có chung một mong muốn là làm sao để dân mình được mãi sống trong thanh bình, đất nước mình thực sự được tự do, độc lập, dân chủ, văn minh, giàu mạnh… Muốn vậy, thì phải hòa hợp, hòa giải. Vì hiện tại, vì tương lai của đất nước, của muôn đời con cháu mà hòa hợp, hòa giải thật sự, thật lòng. Từ suy nghĩ đó, sau khi đọc ý kiến của ông trên báo Đại Đoàn Kết số 91-92, ngày 29/4/2010, rằng: “Bây giờ sau 35 năm, có thể gác lại quá khứ, nhưng không có nghĩa là quên đi quá khứ. Vì nếu chúng ta quên quá khứ thì lại là có lỗi với những người đã hy sinh, với những bà mẹ Việt Nam anh hùng…”, tôi xin kính gửi đến ông vài thiển ý như sau:
Thứ nhất, ai cũng biết quá khứ, hiện tại, tương lai là một dòng chảy liên tục đối với một đời người, đối với một đất nước, một dân tộc. Có quá khứ hào hùng, vinh quang, nhưng cũng có quá khứ bi thương, khốn nạn để lại những gánh nặng đầy máu và nước mắt cho hiện tại và tương lai. Cuộc chiến năm 1954 – 1975 đang được những nhà làm sử chân chính của hiện tại và rồi sẽ được hậu thế phán xét, định nghĩa thật chính xác, thỏa đáng, công bằng và khách quan. Còn chúng ta, những thế hệ đi qua chiến tranh, may mắn còn sống sót, nay cũng sắp về với cát bụi, dù của chế độ miền Bắc, hay miền Nam, đã thừa biết cái giá phải trả cho chiến tranh của đất nước mình, nhân dân mình. Nhất lại là một người cầm bút như ông mà vẫn ôm cái chủ kiến kẻ cả, trịch thượng như vậy thì tôi thấy nguy quá. Ông bảo “Bây giờ sau 35 năm, có thể gác lại quá khứ…” Hai từ “có thể” rất mù mờ, có thể thế này, có thể thế khác, nghĩa là chưa chắc đã được thực hiện. Hoặc vạn bất dĩ có thực hiện thì cũng chỉ là giải pháp tình thế, là động tác giả. Còn hai từ “gác lại” thì đáng sợ lắm thưa ông. Vì “gác lại”, nghĩa là tạm thời cất vào chỗ nào đó, hay tạm gác lên trần nhà, trong xó bếp… vì một mục tiêu trước mắt, hay một mưu toan nào đó, khi cần lại lôi ra, dùng văn nô, bồi bút làm cho mới rợi. Thế là lại đấu tố, lại kỳ thị, lại vân vân… Thì bao nhiêu bài học quá khứ còn sờ sờ ra đấy, chưa ai quên đâu, thưa ông Chu Lai.
Thứ hai, ông còn bảo rằng: “Nếu chúng ta quên quá khứ thì lại là có lỗi với những người đã hy sinh, với những bà mẹ Việt Nam anh hùng…” Ông nói không sai. Nhưng sao tôi thấy thật quá nhẫn tâm và vô cảm với những bà mẹ, những người chồng, người cha, người em, người con của những người lính thuộc Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã không may ngã xuống trong cuộc chiến nồi da, xáo thịt đó. Là một nhà văn, ông đã nghĩ và nói trái với thiên chức của người cầm bút, là góp phần xoa dịu nỗi đau của đồng loại, mà đó lại là đồng bào của mình. Phát biểu như thế trong dịp 30 tháng Tư này trên tờ Đại Đoàn Kết, một tờ báo lớn của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, là ông đã vô tình xát thêm muối vào vết thương lòng của bà con mình đấy. Ngay cả ông Võ Văn Kiệt, một người làm chính trị, sau chiến tranh ngồi đến chức Thủ tướng, mà trước khi về với đất còn nhận thức ra cái nỗi đau ở tầm dân tộc ấy. Trong khi ông, nhà văn Chu Lai, dù đã 35 năm qua rồi mà xem ra cái sát khí vẫn còn ghê gớm lắm.
Đọc xong bài trả lời phỏng vấn của ông trên tờ báo nói trên, tôi lục trong trí nhớ của mình xem nhà văn Chu Lai gắn liền với những tác phẩm để đời nào. Không! Tôi không thể nhớ được. Vậy thì tôi là một bạn đọc “dỏm” rồi còn gì. Theo bài báo, ông Chu Lai là nhà văn, nhà viết kịch kia mà. Tôi liền điện hỏi những người bạn “mọt” sách của mình về những nhà văn, nhà viết kịch mà họ yêu mến của nước ta. Họ kể vanh vách cả tên và tác phẩm: Những thiên đường mù – Dương Thu Hương; Nỗi buồn chiến tranh – Bảo Ninh; Mảnh đất lắm người nhiều ma – Nguyễn Khắc trường; Bến không chồng – Dương Hướng; Tướng về hưu – Nguyễn Huy Thiệp; Thiên sứ – Phạm Thị Hoài; Rừng cười – Võ Thị Hảo; Khách ở quê ra – Nguyễn Minh Châu; Chuyện kể năm 2000 – Bùi Ngọc Tấn; Tôi và chúng ta, Lời thề thứ 9 – Lưu Quang Vũ… Không thấy, tuyệt nhiên không thấy ai nhắc đến tác phẩm gắn với bút danh nhà văn Chu Lai. Chắc mấy vị đồng niên mọt sách của tôi cũng là thứ bạn đọc “dỏm” mất rồi.
35 năm qua rồi, nhân ngày 30 tháng Tư, là một bạn đọc, tôi nghĩ sau ngần ấy năm đã là quá muộn, chỉ mong người Việt mình dù ở quê nhà hay bất cứ chân trời góc biển nào hãy cùng nhau hòa hợp thật sự, hòa giải thật lòng, để cuộc chiến nồi da xáo thịt 1954 – 1975 mãi chìm vào dĩ vãng. Mong những nhà văn Việt Nam, bằng tác phẩm thứ thiệt cùng chỉ cho ra, cho rõ mặt những thế lực ngoại bang từng “xúi nguyên, giục bị” làm chiến tranh, làm cách mạng bằng máu của đồng bào mình. Vậy thôi!
Xin trân trọng kính chào ông!
© 2010 Nguyễn Chính
© 2010 talawas
Bình luận
9 Comments (bài “Nguyễn Chính – Thư ngỏ gửi nhà văn Chu Lai”)
“Văn chương Việt nay cởi mở và … dễ tính thiệt!”(Tôn Văn)
Đọc bài chủ, tôi đã cảm thấy rất chi là “tâm đắc” rồi! Đó là bởi vì được tác giả Nguyễn Chính phân tích cho rất “rạch ròi” mấy chữ “có thể” với “gác lại” của ông Chu Lai. Giờ lại được thêm phần “bình giảng” của hai bác Tôn Văn và Phùng Tường Vân, cũng rất cặn kẽ và chí lí, về từ “hoàn nguyên” và biết được chính xác ý nghĩa của từ này trong khuôn khổ rộng rãi hơn. Như vậy mới thấy đúng là “nhất nhé” cho những độc giả muốn học hỏi như tôi trên diễn đàn talawas này! Tiện đây, tôi đánh bạo “lảng vảng” đến gần “nơi chữ nghĩa”, xin góp với các bác vài ý kiến về chuyện “dễ tính” và “cởi mở” của văn chương Việt nay như thế này(tôi hi vọng mình không huyên thuyên xích đế “lạc đề”):
1. Văn chương Việt nay, có thể đối với bác TV là “dễ tính”, nhưng đối với tôi, sao nó “bí rì” và “khó tính” lạ! Tôi nói thế là bởi vì qua một thời gian tham gia diễn đàn talawas này, tôi “rút” ra được một kinh nghiệm rất lý thú là: các tác giả(bloggers và các khách mời), để nói về một điều gì đó, tuy viết bài rất “thoải mái” đấy, và dùng có thể đến mấy “bồ” chữ đấy, nhưng bao giờ họ cũng được/bị các nhà văn khác, hay những độc giả như các bác TV, PTV,…, “nhặt” ra một hai chữ mang tính chất “lột tả bản chất” nhất trong cái “rừng chữ” ấy. Đấy, ví dụ như bài này, các bác đã “nhặt” ra từ “hoàn nguyên” để “lột tả bản chất” của thứ “văn nô” mà ông CL là một đại diện điển hình. Hoặc như hồi năm ngoái, khi mà không khí đang “rộ” lên bởi cái bài viết “tràng giang đại hải” “Nguyễn Hữu Liêm – Nơi giữa Đại hội Việt kiều: Một nỗi bình an”, thì chúng ta đã được nhà văn Phạm Thị Hoài “nhặt” ra cho cụm từ “triết gia hú còi” để “lột tả bản chất” của ông NHL, và chính bản thân ông NHL cũng công nhận điều này trong bài phỏng vấn ông ấy, bài “Nguyễn Hữu Liêm trả lời phỏng vấn của talawas: Người cộng sản sẽ lắng nghe, nếu chúng ta biết cách nói”. Hoặc, mới gần đây thôi, trong bài “Trần Kinh Kha – Vì sao chúng tôi phải bị cuốn hút vào cuộc chiến này?”, từ “vô cảm” cũng là một từ “lột tả bản chất” mà đã được ai đó “nhể” ra trong hàng ngàn con chữ của bài viết. Và còn bao ví dụ minh họa khác mà tôi không tiện nêu ra đây. Đối với một độc giả bình thường như tôi, việc “chắt lọc” con chữ lại cho mình trong các bài viết, hay nói rộng ra là trong “Văn chương Việt nay”, quả là không dễ dàng chút nào, bởi chính cái sự… “khó tính” của nó! Tôi nói thế, đấy là dựa vào ý nghĩa câu châm ngôn “văn là người”, chắc bác TV sẽ hiểu tôi!:)
2. Về cái sự “cởi mở” của “Văn chương Việt nay”, thì tôi có vài suy nghĩ như thế này: sự “cởi mở” cũng còn tùy vào góc độ nhìn nhận. Tôi lấy ví dụ là cái “vụ Thơ đến từ đâu?”: sự “đục giũa cắt gọt”(biên tập và kiểm duyệt) các bài thơ và các tác giả trước khi đem in, là bằng chứng “hùng hồn” cho sự không “cởi mở” của “Văn chương Việt nay”. Hoặc, cũng vậy, tôi có thể nêu trường hợp của bài thơ “Trăng nghẹn” của nhà thơ Hoài Tường Phong làm dẫn chứng cho cái lý luận “VCV nay không được “cởi mở” cho lắm” của tôi.
VĂN CHƯƠNG … DỄ TÍNH!
Thưa bác Phùng,
Cảm ơn bác đã dẫn ra con chữ thích hợp („còn nguyên“) để … „sửa cho đúng“. Nhưng lại nhớ một chuyện đáng để thư giãn thế này:
Nhà văn gửi đến ban biên tập bản thảo với lời ghi chú:
Do tác giả thiếu thời gian, bản thảo chưa có các dấu „chấm“, „phẩy“, etc. Đề nghị biên tập viên bổ sung.
Thư trả lời:
Đề nghị tác giả chỉ gửi đến các dấu „chấm“, „phẩy“, etc. Ban biên tập sẽ điền chữ và văn vào.
Trường hợp ở đây có hơi khác:
Chu Lai, Cẩm Thúy, Đại Đoàn Kết đưa ra một giàn chữ để độc giả tự mình thay thế, bổ sung các chữ có ý nghĩa!
Văn chương Việt nay cởi mở và … dễ tính thiệt!
Chu Lai là bạn thân của nhà thơ Trần Đăng Khoa đấy, nếu ai đọc cuốn Chân dung các nhà văn Việt Nam, thì thấy Chu Lai chuyên trị viết theo đơn đặt hàng để kiếm tiền.
@Tôn Văn & “Hoàn Nguyên”
Nước vỏ lựu, máu mào gà
Mượn mầu chiêu tập lại là còn nguyên
Mập mờ đánh lận con đen…
Từ một cái tâm và cái tầm như vậy, lại quen sống với thứ văn hóa của phỉnh gạt, lừa dối; nên “danh phận” trong tù mù của lịch sử bị nhào nặn, tôi thấy không có định nghĩa nào chính xác hơn về hai chữ “hoàn nguyên” mà người viết đã dùng như Nguyễn Du đã mô tả ở trên.
Theo tôi “nhà văn Chu Lai” chỉ là sản phẩm PR quảng cáo của chính cá nhân ông hoặc hội đoàn nào đấy. Có dạo thấy báo chí liên tục nhắc đến Chu Lai, tôi tò mò mua một quyển đọc thử. Đến giờ tôi thực sự không nhớ tựa quyển tiểu thuyết ấy, không nhớ nội dung nó nói gì, ngoại trừ cảm giác ngán ngẩm với văn phong và logic của cốt truyện.
[…] http://www.talawas.org/?p=19727 […]
NHÀ VĂN KHÔNG HIỂU CHỮ!
Trích:
„…Giữa ngàn ngàn mỹ nữ thì vẻ đẹp kia vẫn HOÀN NGUYÊN vẻ thiêng liêng mà không gì có thể so sánh được.“
Hiểu ý là:
„… vẻ đẹp kia vẫn HOÀN TOÀN NGUYÊN VẸN vẻ…“
Thực ra:
HOÀN NGUYÊN nghĩa là ĐƯA TRẢ LẠI („Hoàn“, như „hoàn kiếm“ ấy!) TRẠNG THÁI BAN ĐẦU („nguyên sơ“). Trong công nghệ thì là „tinh luyện“, như khi „hoàn nguyên vàng“.
Sửa cho đúng:
Chưa biết.
Kết:
Ở đây cái TẦM quyết định cái TÂM chăng?
“Ông bảo “Bây giờ sau 35 năm, có thể gác lại quá khứ…” Hai từ “có thể” rất mù mờ, có thể thế này, có thể thế khác, nghĩa là chưa chắc đã được thực hiện. Hoặc vạn bất dĩ có thực hiện thì cũng chỉ là giải pháp tình thế, là động tác giả. Còn hai từ “gác lại” thì đáng sợ lắm thưa ông. Vì “gác lại”, nghĩa là tạm thời cất vào chỗ nào đó, hay tạm gác lên trần nhà, trong xó bếp… vì một mục tiêu trước mắt, hay một mưu toan nào đó, khi cần lại lôi ra, dùng văn nô, bồi bút làm cho mới rợi. Thế là lại đấu tố, lại kỳ thị, lại vân vân… Thì bao nhiêu bài học quá khứ còn sờ sờ ra đấy, chưa ai quên đâu, thưa ông Chu Lai.(Nguyễn Chính)
Đọc bài này, tôi nhớ lại cuộc phỏng vấn nhà văn Chu Lai mang tựa đề “Hãy đặt mình vào trái tim dân tộc trước khi cầm bút”(do Phương Thảo thực hiện, đăng trên talawas bộ cũ). Tôi có vài suy nghĩ như thế này, xin chia sẻ với các bác:
1. Nhà văn Chu Lai nói: “Có nhiều nhà văn mặc dù do hoàn cảnh lịch sử, như tham gia chiến tranh chẳng hạn, đã không được học hành đầy đủ, nhưng bù lại họ có người thầy lớn nhất chính là cuộc đời họ trải nghiệm qua. Một nhà văn có tri thức hay không phụ thuộc vào “phẩm hàm” của những tác phẩm anh ta viết ra, chứ không phụ thuộc vào những gì anh ta học.”. Phải chăng ông Chu Lai nói về bản thân mình? Bản thân tôi cũng có đọc một vài tác phẩm của nhà văn Chu Lai, nhưng, (đúng như tác giả Nguyễn Chính nhận xét: “tôi lục trong trí nhớ của mình xem nhà văn Chu Lai gắn liền với những tác phẩm để đời nào. Không! Tôi không thể nhớ được.”), chẳng tác phẩm nào của nhà văn Chu Lai có thể gọi là “để đời” cả. Một nhà văn với một nhân cách, (hay nói theo cách của nhà văn Phạm Thị Hoài là văn cách), là “văn nô”, thì làm sao có được “tác phẩm để đời” được!
2. Tiếp theo cái ý “văn nô”: nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, trong bài viết “Trò chuyện với hoa thủy tiên và sự nhầm lẫn của nhà văn”, đã nêu nên cái thực chất, tức là “chỉ đúng tim đen” của “đám nhà văn “văn nô””. Vậy mà ông Chu Lai chỉ nhìn thấy “vấn đề” ở tầm rất thấp, lại cho đấy là sự “chửi đổng”. Đúng là, cái “TẦM” của “văn nô” chỉ thế thôi!
Đây là một số tác phẩm của nhà văn Chu Lai:
Ăn mày dĩ vãng (tiểu thuyết)
Bức chân dung của người đàn bà lạ
Lỗi không phải tại rượu
Lửa mắt
Một quan niệm tình yêu
Phố nhà binh
Sông xa (tiểu thuyết
Nhà lao Cây Dừa (ký sự)