Lại Nguyên Ân – Xuân Diệu, trong những năm 1954-1958 (kì cuối)
11/05/2010 | 11:26 sáng | 2 Comments
Category: Hồ sơ Nhân văn - Giai phẩm, Văn học - Nghệ thuật
Thẻ: Lê Đạt > Văn Cao > Xuân Diệu
4b. Bước vào năm 1957, ngòi bút Xuân Diệu hoạt động hăng hái hơn năm trước, với thiên hướng nghiêng hẳn về văn xuôi bút ký, tiểu luận. Bài bút ký Mùa xuân thắng đăng dịp tết (Nhân dân 3/2/1957), một bút ký chính luận, chất ký thua chất luận, in rõ nếp nghĩ của một người sống ở một phe nhìn vào cái thế giới hai phe đối đầu nhau, một người sống ở nửa nước chia cắt nhìn sang nửa nước bên kia theo tầm mắt chính thống của phía bên này, giữa thời chiến tranh lạnh, có lẽ báo trước điều đó.
Xuân Diệu đã dự hội nghị thành lập Hội nhà văn Việt Nam, đọc tham luận Vài ý kiến về vấn đề viết sự thật (đăng Nhân dân, 21/4/1957), được bầu vào ban chấp hành đầu tiên, và như vậy Xuân Diệu là một trong 25 hội viên sáng lập. Nhưng Xuân Diệu không tham gia ban biên tập tuần báo Văn, cũng không tham gia ban phụ trách nhà xuất bản Hội nhà văn. Ông có cộng tác gửi một số bài đăng tuần báo Văn, nhưng nơi ông cộng tác chặt chẽ hơn lại là Tạp chí Văn nghệ của trung ương Hội LHVHNTVN với Tổng thư ký Hội LHVHNTVN Nguyễn Đình Thi kiêm chức Thư ký tòa soạn, bắt đầu hoạt động chỉ sau tuần báo Văn khoảng nửa tháng.
Trong năm mới này ông vẫn có ít thơ đăng báo, trên tuần báo Văn hầu như chỉ thấy 3 bài: Gió (s. 3), Chuyên chính (s. 26), Hỏi (s. 32) trong đó Chuyên chính là bài thơ nghị luận; trên Tạp chí Văn nghệ cũng thấy có các bài Gửi sông Hiền Lương (s. 2, th. 7/1957), Đi với giòng người (s. 9, th. 2/1958); một bài như Lệ (Nhân dân, 3/11/1957) có lời đề từ “Tặng Cách mạng tháng Tám và Cách mạng tháng Mười” cho thấy rõ cái tứ chính luận của nó. Trên tờ Văn học mà Hội Nhà văn Việt Nam mới lập ra từ 25/5/1958, Xuân Diệu đã kịp đăng thơ (Bia Việt Nam, s. 12, ngày 15/9/58) hoặc thơ dịch (Người vô sản, dịch thơ Ch. Smirnenski, nhà thơ Bulgary, s. 16, ngày 25/10/58). Nhưng chiếm số lượng nhiều nhất trong thời gian này vẫn là các bài bút ký, tiểu luận.
Xin kể các bài chính.
− Vài ý kiến về vấn đề viết sự thật (Nhân dân, 21/4/1957),
− Tuyển tập “Thơ Việt Nam” đối với phong trào thơ (Tạp chí Văn nghệ, s. 1, th. 6/1957),
− Mùa đông 1919, mùa hè 1957 (Văn, s. 8, ngày 28/6/1957),
− Nguyễn Trãi, nhà thơ mở đầu nền văn học cổ điển Việt Nam (Tạp chí Văn nghệ, s. 3, th. 8/1957; bài này đứng tên chung với Huy Cận),
− Cảm tình với Ấn Độ (bút ký, Nhân dân, 14/9/1957),
− Thế nào là cái mới (Tạp chí Văn nghệ, s. 4, th. 9/1957),
− Những bước đường tư tưởng của tôi (Tạp chí Văn nghệ, s. 6, th. 11/1957),
− Nhà thi hào Pháp A-ra-gông sáu mươi tuổi (Tạp chí Văn nghệ, s. 7, th. 12/1957),
− Cái mới của văn học chúng ta (Tạp chí Văn nghệ, s. 8, th. 1/1958),
− Một số vấn đề đấu tranh tư tưởng trong thơ (Tạp chí Văn nghệ, s. 10, th. 3/1958),
− Những biến hóa của chủ nghĩa cá nhân tư sản qua thơ Lê Đạt (Tạp chí Văn nghệ, s. 13, th. 6/1958),
− Những tư tưởng nghệ thuật của Văn Cao (Tạp chí Văn nghệ, s. 14, th. 7/1958),
−13 tuổi Tiếng nói Việt Nam (Tạp chí Văn nghệ, s. 17, th. 9/1958).
− Kỷ niệm nhà thơ thiên tài dân tộc Nguyễn Du (nói chuyện tại Nhà hát Lớn Hà Nội ngày 26/9/1958 trong lễ kỷ niệm 138 năm ngày mất Nguyễn Du; đăng Tạp chí Văn nghệ, s. 18, tháng 11/1958)
Phần lớn các bài viết này đến giữa năm 1958 sẽ được in thành cuốn Những bước đường tư tưởng của tôi (tiểu luận phê bình văn học của Xuân Diệu, Nxb. Văn hóa, 159 tr. 13x19cm; in xong ngày 8/5/1958), nằm trong loại sách thời sự, phục vụ cuộc đấu tranh tư tưởng thời gian ấy.
Hãy đọc lướt những điều được đề cập trong loạt bài này.
−Vài ý kiến về vấn đề viết sự thật là tham luận tại hội nghị thành lập Hội nhà văn.
“Chúng ta nói những sự thật là có một mục đích, mục đích làm công tác tư tưởng bằng văn học, nên ta không phải là một người cầm cái máy ảnh tốt rồi bạ cái gì cũng chụp ảnh, cũng in ra. Chúng ta không hoàn toàn đi theo cái chủ nghĩa thành thật, vì chủ nghĩa đó chỉ đúng có một nửa. Nhất định những thơ văn nào chúng ta viết ra đều là máu là huyết của ta, đều là thiết tha, thành thật, mà có thiết tha thành thật thì mới hay được. Nhưng không phải những tình cảm nào thiết tha thành thật đều nên đưa vào thơ văn.”
Vì sao vậy? Vì, theo Xuân Diệu, nhà văn không chỉ cần phải là “kỹ sư tâm hồn” mà còn cần phải là “bác sĩ tâm hồn” nữa, cho nên không được để những buồn rầu, tan rã trong hồn mình lây nhiễm sang người đọc.
“Nhà văn hiện nay nên phát hiện nhiều vấn đề mới; nhưng nêu vấn đề ra, nếu chưa giải quyết dứt khoát được, thì ít nhất cũng bao hàm một hướng giải quyết, một thái độ giải quyết. Nếu chỉ nêu vấn đề rồi vứt giữa xã hội thì chỉ tổ gây hoang mang. Vào trong xã hội mà chỉ tin ở sự thành thật theo cảm tính của mình, thậm chí cố tình không mang theo những thứ mà mình cho là tầm thường, như lập trường, như đảng tính, v.v…, thì càng tưởng rằng viết theo sự thật lại càng sai lạc.”
Trong một bài rất ngắn, Xuân Diệu đã làm bật được một số ý niệm vốn là chủ trương của cấp trên, lại kết hợp liên hệ phê bình được tư tưởng của Nguyễn Tuân “nhà văn chỉ cần nêu vấn đề”, “nhà văn có thể là bác sĩ gọi ra bệnh của bệnh nhân, không nhất thiết phải kê đơn bốc thuốc”, mỉa mai được “tiếng sáo tiền kiếp” của Trần Duy, đả kích được Nhân câu chuyện mấy người tự tử của Lê Đạt, chê trách được Một trò chơi nguy hiểm của Nguyễn Thành Long, − những hiện tượng do những người khác phát giác và đã trở thành đối tượng phê phán chung.
− Tuyển tập “Thơ Việt Nam” đối với phong trào thơ là bài nhận xét tuyển tập “Thơ Việt Nam 1945-56”; cách làm của ban tuyển thơ này dựa vào đơn vị tác giả, theo Xuân Diệu nhận định, là không hợp với sự phát triển thơ ca thời kỳ 1945-1956; vì thế ông cho cuốn tuyển này không phản ánh được phong trào thơ của quần chúng, theo ông, là nét nổi trội của thơ Việt Nam thời kỳ 1945-56.
“Ban làm tuyển tập cố nhấn mạnh vào các tài tử đơn ca, trong khi đơn ca chưa nổi bật, mà cái hay, cái đặc điểm của phong trào thì lại là một cuộc hòa tấu phong phú hơn nhiều. Tuyển tập “Thơ Việt Nam” là một cái gương chưa thật đúng và bẻ một nửa của phong trào thơ.”
Xuân Diệu dẫn khá nhiều thơ ca ngoài tuyển tập trên để cho thấy là đừng nên vướng vì quan niệm ‘tác giả’ như ban tuyển này đã mắc, mà nên lấy trọng tâm là phản ánh phong trào thơ; thậm chí ông đưa ra một ý tưởng cực đoan về cách làm tuyển thơ:
“Đến việc sắp xếp các người thơ, tưởng không nên xếp theo a,b,c, mời họ ngồi bàn tròn như thế. Làm như vậy cầu an, tắc trách. Mà phải cố gắng xếp các bài thơ và tác giả theo khuynh hướng, theo thời kỳ, theo nội dung….”
Sau cuốn tuyển mà Xuân Diệu điểm sách như trên, người ta biết,“Tuyển tập thơ Việt Nam 1945-1960” (Hà Nội: Nxb. Văn học, 1960) mà Xuân Diệu tham gia tuyển chọn và chính ông viết lời nói đầu, thì thơ trong tuyển ấy vẫn sắp xếp theo thứ tự a,b,c tên tác giả. Như thế, những đề xuất Xuân Diệu nêu ra ở bài này, in ra vào năm 1957, có lẽ chỉ là một ý thoáng qua nhằm thỏa mãn cái tư tưởng thời thượng vốn đề cao các từ ngữ “quần chúng”, “công nông binh”, cốt nói sao cho gây được ấn tượng, chứ không phải ý kiến có giá trị chỉ dẫn thao tác làm sách tuyển thơ thực sự.
− Mùa đông 1919, mùa hè 1957 là bài dịch đồng thời nói về việc dịch thơ Maiakovski; tựu trung là: bài Mùa đông 1919 của nhà thơ Nga được Xuân Diệu dịch vào mùa hè 1957, thế thôi. Nhưng đây là chỗ để Xuân Diệu phê phán Trần Dần, Lê Đạt. Ông lên lớp Trần Dần:
“Nếu Mai-a sống ở đất nước Việt Nam khi hòa bình vừa lập lại, khi khu vực ba trăm ngày quân Pháp chưa rút hết, còn đóng sát nách tại Hải Phòng, tôi quả quyết rằng, giả sử như Mai-a có trong hoàn cảnh chưa tìm được việc cho vợ làm, cũng không bao giờ Mai-a nỡ như Trần Dần, hạ những câu:
Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ …
Những câu thơ như vậy học tập Mai-a-kốp-ski ở chỗ nào?”
Và Xuân Diệu nhắc nhở cả Trần Dần, Lê Đạt lẫn số đông người làm thơ:
“Vâng, không nên học tập Mai-a-kốp-ski một cách giáo điều! Mà trước tiên, phải học cái hồn thơ, cái lòng yêu nước, cái lập trường cách mạng không gì lay chuyển nổi của Mai-a-kốp-ski”
Ông nhắc lại lời K. Simonov:
“Truyền thống của Mai-a-kốp-ski không phải là ở chỗ bài thơ Lê-nin hoặc bài thơ Được! [có lẽ định nói đến bài Tốt lắm − LNA chú] viết bằng lối ‘leo thang’ hay không ‘leo thang’, mà là ở chỗ Mai-a-kốp-ski đã viết bài thơ về Lê-nin, về Đảng và Tổ quốc!”
− Thế nào là cái mới thực chất là bài trao đổi với quan niệm nghệ thuật của Văn Cao, được tác giả này bộc lộ trong bài Một vài ý nghĩ về thơ (Tạp chí Văn nghệ, s. 3, th. 8/1957). Ý tưởng của Văn Cao “chủ động thành lập nên sự thẩm mỹ mới”, theo diễn đạt vòng vo của Xuân Diệu, chứa đựng cái “tự huyễn diệu của sự kiêu căng cá nhân”; tình cảm của Văn Cao “Yêu những người biết thất bại mà dám mở đường”, được Xuân Diệu khuyên nhủ là đừng mở đường liều, đừng “anh hùng chủ nghĩa rẻ tiền mà ta không dung thứ”! Điều được Xuân Diệu cho in nghiêng để nhấn mạnh là câu khẳng định sẽ mau chóng biến thành công thức như sau:
“Cái mới vô cùng, không văn nghệ cũ nào, không văn nghệ tư sản nào bì nổi, của văn nghệ hiện thực xã hội chủ nghĩa chúng ta, là đấu tranh cho Đảng kiểu mới, chính quyền kiểu mới, con người kiểu mới, và lao động kiểu mới.”
− Những bước đường tư tưởng của tôi là một bản tự kiểm thảo về nhân sinh quan và thẩm mỹ quan của tác giả Thơ thơ, Gửi hương cho gió… Thật ra thì từ năm 1953 ở Việt Bắc kháng chiến, Xuân Diệu đã có một lần dự chỉnh huấn và làm kiểm thảo (xem bài văn xuôi Dứt khoát và bài thơ Trước đây bốn tháng của Xuân Diệu đăng tạp chí Văn nghệ số 41, tháng 7/1953, số về chỉnh huấn) nên, có thể nói, Xuân Diệu đã biết phép ứng xử. Là người đã thành danh trong văn chương tiền chiến, Xuân Diệu có “thi pháp” kiểm thảo riêng, tựu trung là nói thật đậm hai ý, một là “chúng tôi” đã ngụp lặn quá sâu vào vũng bùn nghệ thuật tư sản, rất khó sửa chữa, trước ma lực của hào quang cá nhân chủ nghĩa, chúng tôi rất dễ bỏ con đường sáng, “lại tìm những chốn đoạn trường mà đi”; hai là ơn của Đảng đối với chúng tôi là ơn cứu mạng, “càng sâu nghĩa bể càng dài tình sông”, tình cảm chúng tôi với Đảng là “từ phen đá biết tuổi vàng, tình càng thấm thía, dạ càng ngẩn ngơ”!
− Cái mới của văn học chúng ta thảo luận với đồng nghiệp quanh câu hỏi: vì sao văn học cách mạng chưa có tác phẩm lớn? Theo Xuân Diệu, lý do là “Các nhà văn thời đại của ta chưa chín, và vì thế, các tác phẩm của ta chưa chín”. Lớp nhà văn cũ thì đang tiếp tục tự cải tạo mình để thành nhà văn mới, tức là chưa chín; lớp nhà văn vào nghề cùng với cách mạng thì còn đang cần học tập nhiều về nghề nghiệp, tức là tài năng chưa chín; còn lớp nhà văn sẽ xuất hiện trong chế độ mới thì “họ lại thuộc những giai cấp từ xưa chưa bao giờ được rèn luyện để viết văn”, đào tạo họ thành nhà văn sẽ tốn nhiều thời gian hơn.
Một phần đáng kể của bài này, Xuân Diệu giành để thảo luận với ý kiến Nguyễn Tuân trong lời nói đầu tập truyện dịch của Sê-khốp. Xuân Diệu không chỉ nhắc lại cái quan niệm đã hơn một lần ông đem bàn với Nguyễn Tuân: nhà văn cần phải như người bác sĩ, “gọi ra được bệnh và đề ra được cách chữa, ít nhất là hướng chữa”, chứ không thể chỉ gọi ra bệnh mà thôi.
“Nhà văn ta có thể đặt vấn đề có tệ quan liêu, chứ không thể đặt vấn đề chính quyền dân chủ nhân dân là một bộ máy quan liêu, có thể hỏi là: Đảng làm thế nào lãnh đạo văn nghệ cho tốt?, chứ không thể hỏi là: Đảng có thể lãnh đạo văn nghệ được không? Nghĩa là nhà văn có thể đặt những vấn đề ra để cho nhân dân càng tăng cường cảnh giác, càng tự nghiêm khắc với những tệ lậu còn lại, càng thấy làm cách mạng không phải là đi ngao du, v.v… chứ không phải là buông thõng ra rất nhiều câu hỏi đặt rất sai để gieo rắc hoang mang vào quần chúng!”
Với những nỗ lực như trên này, có thể thấy vào thời điểm này nhà thơ đang góp phần đặt ra những quan niệm quy phạm nhằm thu hẹp quyền nhận xét và suy nghĩ về đời sống thực tế đương thời của giới văn nghệ sĩ và trí thức nói chung. Có lẽ, qua trường hợp Xuân Diệu, người ta lại thấy rõ, mỗi hạn chế, mỗi trói buộc mà ba chục năm sau mới được thừa nhận, đã định hình theo cung cách như thế nào, và lịch sử của sự đánh mất tự do cũng đồng thời là lịch sử của sự tự nguyện từ bỏ từng phần tự do ra sao.
Xuân Diệu còn giành một phần nữa của bài này để thuyết phục Nguyễn Tuân: không nên xem Sê-khốp như mẫu mực mà phải thấy Sê-khốp chỉ dừng lại ở hiện thực phê bình, không hữu ích bằng Gorki với Người mẹ, tức là Gorki đã đi tới hiện thực xã hội chủ nghĩa, đi xa hơn Sê-khốp! Cố nhiên, đây là điều không chỉ để nói với Nguyễn Tuân mà chủ yếu là điều cần khẳng định như một định đề lớn về nền nghệ thuật mới, lớn lao, đang được xây dựng.
− Một số vấn đề đấu tranh tư tưởng trong thơ là bài báo được công bố khi các hiện tượng Nhân văn, Giai phẩm đã được tuyên bố công nhiên trên công luận như là hoạt động chống Đảng chống chế độ, khi những người tham gia các ấn phẩm đó đã bị tuyên bố là kẻ thù ở bên kia chiến tuyến. Bài này của Xuân Diệu và các bài khác của ông như Những suy nghĩ chung quanh vấn đề chỉnh huấn, Những biến hóa của chủ nghĩa cá nhân tư sản qua thơ Lê Đạt, Những tư tưởng nghệ thuật của Văn Cao, − đều thuộc phần đóng góp của Xuân Diệu vào đợt tổng công kích Nhân văn – Giai phẩm, diễn ra trên nhiều tờ báo ở miền Bắc trong quý II/1958.
Bằng vào loạt bài viết này của Xuân Diệu, có thể dự đoán rằng, trong cuộc tổng công kích này, Xuân Diệu được phân công, − hay là ông tự chọn lấy cũng vậy, − mấy mục tiêu chính: khu vực thơ như một chiến trận tư tưởng, với các cứ điểm Lê Đạt, Văn Cao, bên cạnh đó là Nguyễn Tuân với tùy bút Phở và với quan niệm bị coi là sai lầm nghiêm trọng: coi viết văn giống như bác sĩ, chỉ cần gọi ra đúng bệnh, không cần kê đơn bốc thuốc.
Phải sòng phẳng nhận rằng, Xuân Diệu đã tham dự cuộc tấn công này một cách hết sức hăng hái. Ông không phải người phát hiện nhưng là người phác họa lại rõ nét “một luồng thơ chống Đảng, chống chế độ”, là người đã đem tất cả uy tín của một nhà “thơ mới” hàng đầu hồi những năm 1940 để kết tội những cây bút vào giữa những năm 1950, theo ông nhận xét, đã “cố nặn ra một chất thơ ác, đập vào giác quan bằng mọi cách, cố giật gân người đọc như Trần Dần, huênh hoang như Lê Đạt, trá hình nhiều cách lập lờ giả trá như Hoàng Cầm”.
Xuân Diệu dành cho hai tác giả Lê Đạt và Văn Cao mỗi người một bài viết riêng. Nếu bài về Lê Đạt thiên về chửi bới sỉ nhục, thì bài viết về Văn Cao lại thiên về giọng điệu mỉa mai cay độc. Dưới ngòi bút Xuân Diệu, Lê Đạt chỉ là một nhà thơ cao bồi:
“Một anh cán bộ văn hóa đã bộc lộ rằng khi anh đọc thơ Lê Đạt cho một số thanh niên cao bồi ở Hà Nội thì họ mới nghe thoáng qua, chưa cần hiểu rõ từng câu, họ đã thích ngay. Cái máu cá nhân anh hùng rẻ tiền càn quấy ngổ ngáo của cao bồi đã gặp Lê Đạt là kẻ phát ngôn của họ”.
Nhưng trong mắt Xuân Diệu, Văn Cao lại như một “đại ca” nằm vùng, “giả dối như một con mèo, kín nhẹn như một bàn tay âm mưu trong truyện trinh thám”, “lập lờ, ấp úng, bí hiểm, hai mặt”, “hiểm độc”, “một cái giọng cao đạo, ra vẻ bác học, thông thái”, “giọng tiên tri”, v.v… Tất nhiên, điều chính yếu mà Xuân Diệu phải vạch ra bằng được ở Văn Cao là “cái duy tâm chủ quan, cái cá nhân chủ nghĩa bế tắc, cái tìm tòi lập dị, cái khinh thường quần chúng, một mớ cặn bã tư tưởng cũ rích”! Xuân Diệu cảnh tỉnh Văn Cao mà như có ý đồng thời tự căn dặn mình:
“Nhà văn trước tiên phải ôm lấy tư tưởng đúng, phải ôm lấy quần chúng vạn năng, phải ôm lấy Đảng vĩ đại, chứ nếu chỉ ôm lấy một mớ chữ, theo lối Văn Cao tán thưởng, thì chỉ là ôm lấy tro tàn thuốc lá hay cặn rượu mà thôi. Huống chi mớ chữ đó lại còn phản động, thì nhất định tiêu ma sự nghiệp.”
Tất nhiên, con người Xuân Diệu vốn không ham đấu đá, đấu tố, dù khi bị cuốn vào, khi được phân công viết phê phán những người và việc cụ thể, ông không thể không thực hiện, hơn thế, ông còn phải tỏ rõ sự nhất trí với chính thống cả về quan niệm lẫn thái độ, nên đã tỏ rõ nhiệt tình khi đang trong cuộc. Nhưng khi đợt đấu tranh đã chấm dứt, khi Xuân Diệu được bắt tay vào viết về thi hào dân tộc Nguyễn Du, ông đã không dấu nổi cái thở phào ngay ở phần đầu bài viết. Công việc làm thơ và tìm lại các giá trị thơ cổ điển dân tộc của ông, vài năm sau, sẽ thành tựu trong tập thơ Riêng chung, trong tập tiểu luận Ba thi hào dân tộc, v.v…
4c. Điều cần thiết sau cùng của bài này, theo đề tài đã chọn, là cần kiểm điểm lại các xuất bản phẩm của Xuân Diệu trong những năm 1954-58.
Dưới đây là theo nguồn của Thư viện Quốc gia ở Hà Nội.
Các sách in riêng:
– Tiếng thơ, Hà Nội, Nxb. Văn nghệ, in lần thứ hai, 1954, 112 tr. 19cm.
– Ngôi sao, tập thơ 1945-1954, Hà Nội, Nxb. Văn nghệ, 1956, 97 tr. 19cm.
– Ký sự thăm nước Hung, Hà Nội, Nxb. Văn nghệ, 1956, 67 tr. 19cm.
– Mẹ con, thơ ca phát động, Hà Nội: Nxb. Văn nghệ, 1957, 36 tr. 18cm.
– Miền Nam nước Việt và người Việt miền Nam, bút ký, Hà Nội: Nxb. Xây Dựng in lần thứ tư, 1957, 30 tr. 19cm. (in lần đầu: 1945)
– Triều lên, tập văn 1945-1957, Hà Nội, Nxb. Hội Nhà Văn, 1957, 161 tr. 19cm.
– Những bước đường tư tưởng của tôi, tiểu luận phê bình văn học, Hà Nội: Nxb. Văn hóa, 1958, 158 tr. 18cm.
Các sách in chung:
– Truyện bảy anh hùng / tập truyện anh hùng của Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Huy Tưởng, Xuân Diệu, v.v../ Hà Nội: Nxb Văn nghệ, in lần thứ hai, 1954, 144 tr. 19cm.
– Chúng tôi thăm Liên Xô / tập thơ văn của Nguyễn Tuân, Tú Mỡ, Xuân Diệu, v.v../ Hà Nội: Nxb. Văn nghệ, 1956, 47 tr. 26 cm.
– Nhìn sang bên kia, / tập thơ văn của Xuân Diệu, Lương An, Vĩnh Mai…/, Hà Nội: Nxb. Hội Nhà Văn, 1957, 65 tr. 23 cm.
Nhìn vào danh mục trên, ta thấy rõ, trong những năm này, Xuân Diệu vẫn đang là một tác gia văn học sung sức, tuy rằng sự đóng góp cho văn học của ông không còn chủ yếu là ở lĩnh vực sáng tác thơ nữa.
Tháng 8 – tháng 10/2008
© 2010 Lại Nguyên Ân
© 2010 talawas
Bình luận
2 Comments (bài “Lại Nguyên Ân – Xuân Diệu, trong những năm 1954-1958 (kì cuối)”)
“Nay bài viết đã hoàn tất, trước hết là phải có lời cảm ơn tác giả đã, một lần nữa, cung cấp cho người đọc một account tin cậy về một giai đoạn mù mờ của lịch sử văn học nói riêng, lịch sử chính trị nói rộng ra. Những dữ liệu mà ông cung cấp còn trên cả mức khả tín bởi vì chúng là những tài liệu còn rành rành trên chữ viết, nó bị khuất lấp vì có rất nhiều người không bao bao giờ muốn những con chữ như cắn rứt thớ tim của họ, được ra khỏi những khu “tàng thư” bụi bậm, khi in “toàn tập” này, “toàn tập” nọ họ cũng làm như sơ ý, à uôm mà bỏ đi, có thể nói không quá rằng, đó cũng là một thái độ bất lương, ở đây thì họ lại muốn cho mọi người quên đi chứ không như trong những hận thù dân tộc, họ cao giọng “không thể nào quên được”!” (Phùng Tường Vân)
Tôi cũng nghĩ như bác PTV, nhưng bản thân tôi vẫn “khoái” những bài viết của tác giả Nguyễn Chính (như những bài “Thư ngỏ gửi nhà văn Chu Lai”, “Tư duy thơ, tư duy “nô”!”, “Tản mạn đôi dòng về cái sự “văn nô…””, “Nhà thơ Việt Phương”, “Luẩn quẩn ông Ninh, luẩn quẩn ông Nang và bức xúc một lối thoát”), hoặc những bài của Tưởng Năng Tiến (Diễn), của Khánh Minh (“Đồng chí lào mà lịnh thế?”),… hơn. Bởi vì đối với tôi, những bài này mang tính “cọ sát kỳ sít” hơn, do chúng nói về “những đối tượng vẫn đang sống sờ sờ trước mắt mình” và các tác giả không ngại “đụng chạm”, họ dám “nói thẳng, nói thật, nói luôn”. Ý tôi muốn nói là: đọc những bài mang tính chất “khảo cổ” như loạt bài này của tác giả Lại Nguyên Ân, nhiều khi tôi có suy nghĩ như thế này: “Ờ, ờ, hay nhỉ, hay nhỉ, nhưng sao ngay cái hồi đấy, không thấy ai nói lên những điều này? Tại sao phải đợi sau khi họ chết vài chục năm mới có người “dám” viết nhỉ? Phải chăng là do thời đó “khan hiếm” những nhà phê bình “bạo dạn”?”. Đối với tôi, hiện tại bao giờ cũng mang nhiều ý nghĩa hơn quá khứ, bởi, một phần, nó(hiện tại) “sống động” hơn, một phần, mình có thể tự “kiểm chứng” nó được. Và chính vì thế mà tôi đọc “ngấu nghiến” những bài mang tính thời sự trên talawas này. Còn những bài mang tính “khảo cổ”, thì, cũng đọc đấy, nhưng không được “vồn vã” cho lắm!
Tôi có ý định đợi đọc hết loạt bài viết hữu ích này rồi sẽ có đôi điều thưa lại cùng tác giả; một hai nhận xét trước chẳng qua là thấy có chi tiết thích thú nào mà mình cho là có thể khiến nhiều độc giả khác quan tâm hơn đến một bài viết công phu thì nêu lên, đấy là một chỗ có dụng ý. Nay bài viết đã hoàn tất, trước hết là phải có lời cảm ơn tác giả đã, một lần nữa, cung cấp cho người đọc một account tin cậy về một giai đoạn mù mờ của lịch sử văn học nói riêng, lịch sử chính trị nói rộng ra. Những dữ liệu mà ông cung cấp còn trên cả mức khả tín bởi vì chúng là những tài liệu còn ràng ràng trên chữ viết, nó bị khuất lấp vì có rất nhiều người không bao bao giờ muốn những con chữ như cắn rứt thớ tim của họ, được ra khỏi những khu “tàng thư” bụi bậm, khi in “toàn tập” này, “toàn tập” nọ họ cũng làm như sơ ý, à uôm mà bỏ đi, có thể nói không quá rằng, đó cũng là một thái độ bất lương, ở đây thì họ lại muốn cho mọi người quên đi chứ không như trong những hận thù dân tộc, họ cao giọng “không thể nào quên được” !
Tác giả đã cung cấp những văn sử liệu thật hữu ích, đặc biệt hữu ích cho những người đã chọn không sống ở miền Bắc sau năm 1954 và sau đó cũng đã chọn bỏ nước mà ra đi sau năm 1975, những người tuy xa cố hương, tuy xa đất nước nhưng lòng thương yêu tổ quốc, thương yêu nền văn học của đất nước ấy lúc nào cũng thao thiết, vâng, thao thiết !
Ngay từ những năm 1949, 1950 tuy còn rất thiếu niên, tôi đã được đọc những số báo Văn Nghệ, in trên nền giấy thật xấu, xuất hiện hiếm hoi ở Liên Khu 3, đọc kịch bản “Những Người Ở Lại” của Nguyễn Huy Tưởng đăng dở dang trên báo ấy, được đọc một ký sự về một Hội Nghị Văn Nghệ gì đó có 4 câu thơ của Vân Đài, còn nhớ mãi đến hôm nay :
Bao năm kháng chiến trời tung gió
Như một đàn ong đã lạc bầy
Bao nỗi nhớ mong tâm sự đợi
Một chiều họp mặt có hôm nay
nhắc đến cái thời “khỏe mạnh” của tổ quốc ta lúc ấy, nhìn lại đất nước lúc này…thật bất cứ ai còn chút gan ruột, không khỏi không tự hỏi làm sao mà nông nỗi nó ra như vậy, cho nên những trang viết của ông, tuy chỉ hạn hẹp trong một “vận động (!) văn học của một thời đã qua, tuy chỉ liên quan (như ở đây) đến một khuôn mặt văn học quen thuộc, nhưng rõ ràng nó là những chứng liệu nếu không được ghi lại, không được “nói lại” cứ để cho những ký ức chủ quan nhào nặn thì bản lai diện mục của một thời chưa xa ấy sẽ mãi mãi lẩn trốn kẻ thành tâm muốn đi tìm chút ít sự thật của một thời mà sự giả dối, được trâng tráo tuyên dương, sự lường gạt được trùm phủ hào quang óng ánh của trang kim, mã não !
Về Xuân Diệu, ông cho độc giả nhìn rõ nhân cách một người nghệ sĩ khôn ngoan, suốt một đời đuổi bắt những ban phát của chính trị, một thi sĩ người từng tuyên ngôn “Ta là con chim/ Đến từ núi lạ/ Ngứa cổ hát chơi, nhưng những viết lách của ông ở giai đọan ấy, như được trích dẫn một số thật ít ở đây thì rõ ràng là nó không còn là tiếng con chim lạ, mà nó trở thành tiếng cú đêm khuya, tiếng quạ đánh hơi xác chết, thê thảm thật. Vương Trí Nhàn đã có lần mô tả ông ta là người ham ăn đến nỗi “mỡ quấn vào tim mà chết” nghe có phần tàn nhẫn, nhưng không phải là không đúng .
Thích thú nhất là được ông nhắc đến vai trò và cung cách của báo Văn, xưa rầy khi nhắc đến “Nhân Văn Giai Phẩm” không mấy ai chỉ được cho rõ ngọn nguồn thú vị của tờ báo thuộc dòng chính này, những bài viết thú vị, đối tượng cho những trù dập tàn bạo sau này, một số không ít là nằm trong tờ báo của Hội Nhà Văn đầu tiên của nuớc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà này đấy chứ !
Rất mừng đã được đọc một công trình biên khảo nghiêm chỉnh, mừng hơn nữa là thấy ông cho nó xuất hiện trên mạng talawas, bởi vì với những độc giả chọn mạng này làm nơi lui tới, thì việc ấy không khác gì ông đã chọn mặt mà gửi vàng vậy, và chỉ còn biết mong được gặp ông ở đây “nhặt kỳ” hơn nữa .