Nguyễn-Khoa Thái Anh – Khi nào Việt Nam mới có một đại tác phẩm hay một cuốn phim vĩ đại?
17/06/2010 | 12:00 chiều | 10 Comments
Category: Nhìn lại cuộc chiến 1954-1975, Văn học - Nghệ thuật
Thẻ: Đào Thị Minh Vân
Matt Steinglass đọc Tim O’ Brien, tác giả viết về chiến tranh (cựu chiến binh Mỹ) ở Hà Nội và rất ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng “gần như hầu hết các tiểu thuyết lớn về chiến tranh Việt Nam của Mỹ không được độc giả Việt Nam biết đến” những người mà theo ông “không thích tìm về cuộc chiến tranh đó lắm”; trong khi đó “khi nói đến sách báo thì bộ máy kiểm duyệt cố hữu của cộng sản vẫn hoạt động như cũ”, và khi nói đến phim ảnh thì chuỗi các rạp chiếu bóng hiện đại mới mở ở Việt Nam cứ việc chiếu những cuốn phim mà khán giả ngáp lên ngáp xuống, các loại phim mà “ít ai nghĩ hệ thống kiểm duyệt có thể thông qua như “Watchmen hay “Tropic Thunder”.
Những cuốn tiểu thuyết về Việt Nam vẫn tiếp tục được nói tới trong mục điểm sách tháng Tư của báo New York Times (Book Review), kỳ này giới thiệu đúng lúc hai bài điểm sách một cặp tiểu thuyết đầu tay: “Matterhorn” của Karl Marlantes và “The Lotus Eaters” (Người ăn hoa sen) của Tatiana Soli. Như người ta thường nói, ‘Việt Nam không phải là Chiến tranh, mà là một xứ sở’. Đến khi nào mới có Việt Nam: Một tiểu thuyết (Mỹ vĩ đại)? Điều gì đi nữa, theo một nhà điểm sách, đề tài Việt Nam vẫn bán chạy![1]
Phải nói rằng Việt Nam chưa có một đại tác phẩm nào – trong tiểu thuyết cũng như phim ảnh – có thể sánh với nỗi trầm kha thống khổ và dai dẳng của một dân tộc bất hạnh.
Chỉ nội trong vòng nửa thế kỷ qua, cuộc chiến Việt Nam đã để lại nhiều câu chuyện trầm uất, tang thương, những bi hài kịch với đầy đủ những yếu tố kỳ bí, lâm ly bi đát, xứng đáng được viết thành tác phẩm hay phim, ngõ hầu xứng danh với bất kỳ một kịch bản hay tác phầm văn chương quốc tế nào. Nhưng tiếc thay – cho đến nay – vẫn chưa có một cuốn phim vĩ đại (epic movie) hay một đại tác phẩm văn chương có thể tổng hợp hay nói lên được hầu hết các biến cố quan yếu của đất nước cũng như mảnh đời tang thương của dân tộc Việt. Người Nga đã có thiên tình sử Dr. Zhivago, người Khmer có The Killing Fields, người Trung Hoa phần nào với The Last Emperor, người Mỹ với một quá trình lập quốc chưa đầy 400 năm đã có quá nhiều cuộn phim lồng trong bối cảnh lịch sử sáng giá mà người viết không thể kể hết ra đây.
Trong quá khứ đã có một số tác phẩm có tầm vóc như Saigon: A Novel của Anthony Grey được ông Nguyễn Ước dịch ra dưới nhan đề là Trăng Huyết – Tiểu thuyết này đã có một dạo, vào thập niên 80, được hệ thống truyền hình ABC của Mỹ dàn dựng thành một mini series nhưng không hiểu vì lý do gì đó dự án này đã bị bở dở. Cốt chuyện lồng trong hơn nửa thế kỷ cận đại bối cảnh lịch sử Việt Nam từ thời Pháp thuộc cho đến lúc Sài Gòn thất thủ, nói về tình yêu giữa con trai của một nghị sĩ Mỹ và một cô gái con quan trong triều đình Huế -; The Eaves of Heaven: A Life in Three Wars của Andrew Phạm được xem như một hồi ký của gia đình dòng dõi của tác giả, nói về cuộc đời của ông nội, thân phụ, là những điền chủ di cư từ Bắc vô Nam; và các cuốn phim như Chúng tôi muốn sống, Heaven and Earth (phóng tác từ quyển When Heaven and Earth Changes Places của bà Lệ Lý Hayslip), một chuyện thật nhìn từ nhãn quan của một cô gái Quảng Ngãi (bà Lệ Lý) sống trong vùng kềm tỏa của Việt cộng, Indochine, The Quiet American, gần đây là Dòng máu anh hùng (The Rebel), Đừng đốt, hoặc một số rất ít các phim mà tôi chưa được xem, nhưng lấy công minh mà xét thì chưa có một phim nào tương xứng với những trải nghiệm mà dân tộc đã kinh qua.
Gần đây quyển A Thousand Tears Falling (Ngàn giọt lệ rơi) của bà Mỹ Dung (Yung Krall) nói về sự phân ly của một gia đình có nhiều hứa hẹn sẽ mang lại những yếu tố cho một kịch bản lớn. Cốt chuyện: Sau khi Pháp thua ở Điện Biên Phủ năm 1954, người Việt nhìn về một triển vọng hòa bình tươi sáng trên đất nước. Cuốn Ngàn giọt lệ rơi cho thấy cái nhìn của một đứa bé gái trong quang cảnh chiến tranh Việt Nam, nói lên tiểu sử đau thương của gia đình tác giả. Trong khi ba cô là một người tập kết chiến đấu cho miền Bắc, Mỹ Dung lớn lên ở miền Nam, giữa bầu trời khoáng đãng, màu mỡ và tươi tốt của thiên nhiên và cây trái. Trong vai người con của ông đại sứ Đặng Quang Minh ở Nga, đại diện cho Mặt trận Giải phóng miền Nam, cô Dung phải đương đầu với cảnh ngang trái của một người con của cách mạng.
Như mẹ mình, cô Dung không tin tưởng vào sự nghiệp cộng sản mà người cha đã cống hiến cuộc đời mình. Rốt cục, cô làm việc cho chính quyền miền Nam và quân đội Mỹ, yêu một phi công Mỹ, rồi sang Mỹ và để gia đình được cứu ra khỏi Sài Gòn, cô đã chấp nhận làm gián điệp cho CIA. Dùng kinh nghiệm tình báo quốc tế của mình, cô Dung nhận một công tác còn nguy hiểm gấp bội: giữ vai trò bắt gián điệp của địch cho FBI với bí danh là Keyseat. “Một gia đình chia xẻ vì chính kiến, chúng ta có một cốt chuyện trôi như một dòng sông đầy nước mắt.” (Phỏng theo lời giới thiệu sách của nhà xuất bản)
Nhưng có lẽ, những mẩu chuyện thật như câu chuyện dưới đây của một người con đi tìm cha hơn 40 năm sau cái chết của ông mới thật thương tâm, may ra có thể góp phần cung ứng tư liệu cho những tác phẩm tầm vóc sau này[2]:
Vào khoảng trung tuần tháng Tư vừa qua, bà Đào Thị Minh Vân, 41 năm sau cái chết của người cha, Đào Phúc Lộc, mà bà không nhớ mặt, đã bỏ gần một tuần để đến Trung tâm Văn khố Việt Nam ở Đại học Texas Tech, thành phố Lubbock, để tìm tòi, tra cứu về sự ra đi có nhiều nghi vấn của ông, một trong những người sáng lập ra Văn phòng Quân báo của Hà Nội ở miền Nam.
Năm 1946, khi ông Đào Phúc Lộc, 46 tuổi, (bí danh Hoàng Minh Đạo, Năm Đời, Năm Thu) tham gia kháng chiến ống Pháp, thì con gái ông mới chập chững biết đi. Ba ngày sau khi mẹ bị mất vì bệnh sốt rét thì bố phải chia tay con, ông ủy phái con gái cho một người gánh trong một cái thúng quảy hơn 100 cây số từ chiến khu về gia đình bố mẹ nuôi ở Hà Nội, một cuộc hành trình dài cả trăm kilômét mà bà không thể nhớ nổi.
Trong thời chiến bà được cho biết bố bà là một thương gia buôn bán ở Nam Vang, Cam Bốt, hoặc là một tài xế taxi ở đó. Thỉnh thoảng bà mới nhận được tin của bố. Khi ông được gởi vào Nam tập kết năm 1948 để thành lập một hệ thống tình báo, bà chỉ mới 3 tuổi. Lớn lên và sống trong sự thiếu vắng người cha, bà không bao giờ được gặp mặt hay biết rõ chức vụ thật của ông cho đến khi chiến tranh chấm dứt. Ông Đào bị giết trong một trận phục kích ở Vàm Cỏ Đông ngày 14 tháng 12, năm 1969.
Sau khi chiến tranh kết thúc, bà Vân làm ăn thành công và trở thành phó giám đốc của nhiều chi nhánh các siêu thị Lotte (Lotte Supermarket) ở Việt Nam cũng như nhiều công ty khác. Khi khám phá ra sự thật về người cha, bà dò la và phỏng vấn hơn 400 sĩ quan tình báo chiến đấu chung có liên quan đến công tác của cha mình, nhằm tìm hiểu ngọn ngành của cuộc đời kỳ bí của ông. Bà Vân đúc kết tất cả những cuộc ghi âm thành ba quyển sách và tặng cho những người bạn của bố. Tuy vậy bà vẫn có nhiều câu hỏi cũng như về cái chết người cha mà không có câu trả lời.
Bà được cho biết là cha mình và 17 đồng đội dưới quyền mình bị mai phục khi ông định băng qua sông Vàm Cỏ Đông trên ba chiếc tàu. Khi đang băng qua sông, ghe ông bị ba tàu máy Mỹ phục kích và ông bị bắn chết. Cuộc phục kích được tăng cường bằng hỏa lực, trực thăng tác chiến cũng như không lực chiến lược, điều này khiến bà cho là một cuộc mai phục được dàn dựng trước. Bà Vân lúc nào cũng có nghi vấn là hành tung của chuyến đi của người cha đã bị tiết lộ.
Mục đích của bà là tìm hiểu thêm về cuộc tấn công này từ hồ sơ của các đơn vị tác chiến phía Hoa Kỳ được lưu giữ trong Trung tâm Ngân khố và các hồ sơ và tư liệu được cất ở Đại học Texas Tech, nơi cũng đang lưu giữ hai quyển nhật ký nguyên thủy của bác sĩ Đặng Thùy Trâm.
© 2010 Nguyễn-Khoa Thái Anh
© 2010 talawas
[1] http://diacritics.org/2010/06/02/quick-links-happy-belated-deep-resentment-day/
[2] http://www.lubbockonline.com/stories/042310/fea_618912783.shtml
Bình luận
10 Comments (bài “Nguyễn-Khoa Thái Anh – Khi nào Việt Nam mới có một đại tác phẩm hay một cuốn phim vĩ đại?”)
Hôm trước, vội vàng, tui quên kể cái vĩ đại thứ ba của VN: thiên tài nhạc Trịnh Công Sơn. Hôm nay, thất nghiệp mà lại gặp sáng chủ nhật buồn, nên tui xin tiếp tục “đèo léo”.
Một phim về chàng nhạc sĩ “hát rong” ốm yếu nhưng tửu lượng rất vĩ đại này, nếu không vĩ đại thì chắc chắn cũng sẽ ăn khứa, và chàng sẽ/lại được ví với các nhạc sĩ/ca sĩ Mỹ như Woody Guthrie, Bob Dylan, Joan Baez, Janis Joplin, thậm chí, với Elvis Presley, Michael Jackson, hay ai đó nữa.
Nếu trong phim mà có cô ca sĩ “sinh viên” Khánh Ly lúc mới ra nghề, xuất hiện trong cái Hầm Gió (trên đường Võ Tánh cũ) ca bài “Diễm Xưa” thì chắc chắn khán giả quốc nội sẽ đứng dậy vỗ tay rần rần, và khán giả quốc ngoại thì sẽ bủn rủn tay chưn, như khi nghe nhóm Beatles hát nhạc phẩm “Yesterday”.
Nếu tui mà được chiếu cố “mời” làm phim này, tất nhiên cuối phim sẽ/phải có cái cảnh “hậu hỉ/happy ending” nàng tiên tóc trắng Khánh Ly dời gót ngọc trở lại “mái nhà xưa”, tâm sự: “trẻ con đã lớn | đã thấy quê hương | người con gái Việt Nam chân dài mũi dọc | yêu đô gia hơn yêu nhà ái quốc…”
Và chàng tiên tóc bạc Công Sơn quay gót ngà trở xuống dương gian ôm đàn guitar trèo lên “đỉnh cao” nhìn ra “biển lớn” mà hát vang vang:
Một ngàn đêm liên hiệp hội hè
Một trăm đêm liên hệ hội he
Hai mươi đêm hội chứng từng giờ
Gia tài của mẹ
Một chợ hoa khôi
Gia tài của mẹ
Điệu vũ bụng mời…
Dạy cho con tiếng nói thênh thang
Con chớ quên đồ la…
Dạy cho con tiếng nói thiệt thà
Con nhớ yêu đồ la…
Enjoy!
Xin thưa VN đã có:
1. Tác phẩm vĩ đại: Truyện Kiều.
Nay, nếu muốn có một cuốn phim vĩ đại thì chỉ cần hợp tác với Trung Quốc để sản xuất. Trương Nghệ Mưu hay Trần Khải Ca đạo diễn. Vai chính sẽ phó thác cho các siêu sao Trung Quốc, Hồng Kông. Vai phụ sẽ do VN đảm nhiệm. Phim màu, dài chí ít là ba tiếng, chắc chắn sẽ được ví với “Memoirs of a Geisha”. Mà cũng có thể sẽ đoạt hết các giải thưởng quốc nội và quốc tế.
2. Nhân vật vĩ đại: Hồ Chí Minh.
Mai, nếu muốn có một cuốn phim vĩ đại thì chỉ cần mời Oliver Stone đạo diễn. Có thể là một cuốn phim riêng, hay phim bộ truyền hình, vĩ đại, rất vĩ đại.
Có thể là một sản phẩm quốc tế với sự tham gia của nhiều nước như Pháp, Mỹ, Anh, Nga, Nhật, Trung Quốc. Chắn chắn sẽ được ví với “JFK”, “Nixon”, “Alexander”, hoặc “Ivan Đại Đế”, “Napoléon”, “Tần Thủy Hoàng”.
Phim bộ chí ít sẽ có năm phần: Tuổi thơ, Tha hương, Ba Đình, Việt Bắc, Độc Lập. Chắn chắn sẽ được ví với “Garibaldi il generale”, “North and South”, và tất nhiên sẽ đoạt tất các giải thưởng quốc nội và quốc tế.
Vào khoảng trung tuần tháng Tư vừa qua, bà Đào Thị Minh Vân, 41 năm sau cái chết của người cha, Đào Phúc Lộc, mà bà không nhớ mặt, đã bỏ gần một tuần để đến Trung tâm Văn khố Việt Nam ở Đại học Texas Tech, thành phố Lubbock, để tìm tòi, tra cứu về sự ra đi có nhiều nghi vấn của ông, một trong những người sáng lập ra Văn phòng Quân báo của Hà Nội ở miền Nam. (NKTA)
Kể ra cũng lạ, một ông sếp khá lớn như vậy, mức độ hy sinh (đời sống và cái chết) cũng to tát như vậy, lại có con gái lặn lội qua tận Mỹ để tìm hiểu về những hoạt động của cha mình.
Chẳng lẽ chính quyền Hà Nội không cung cấp gì đáng tin cậy, hay giúp thông tin (được lưu giữ) gì cho bà Vân hay sao?
ÔI CHO XIN VĨ ĐẠI … VÀ NHIỀU HƠN NỮA.
Xin hãy xót thương cho hồn trẻ dại
Khi Người về làm cháy khát bên song
Cả lòng ta, ngươi nói trong vĩ đại
Của lòng ngươi – Ôi Biển cả mênh mông
(CLV – Biển Cả)
Ôi những năm con người sống trụi trần bằng cái nhựa chửa thành hoa, bằng cái loi
Hỏi họ Tổ quốc là gì ư? Họ lúng túng im. Chân lý chả lắm nhời
Phút trước họ vô danh, phút sau hóa phi thường vĩ đại.
Im lặng đánh, im lặng cười, nghìn chết chẳng khi lui.
Hơn cô Kiều đã qua chuyện cũ, hơn vệ tinh chưa đến, chuyện về sau.
(CLV – Nghĩ suy 68)
Có cái bất tử của người duy tâm
Hào quang loá mắt
Lại có cái bất tử của người duy vật
Nhập hạt lúa sổ thành mình vào mặt đất
Lên trong mùa vĩ đại của nhân dân.
(CLV – Trong lăng và ở bên ngoài)
Cả đất nước: chiến khu vĩ đại
Bước chân ta khắp bãi chiến trường
Quét Cao – Lạng, mở biên cương
Mênh mông gió lớn bốn phương thổi vào.
(TH – Quang vinh Tổ quốc chúng ta)
Đảng ta đó, trăm tay nghìn mắt
Đảng ta đây, xương sắt da đồng
Đảng ta, muôn vạn công nông
Đảng ta, muôn vạn tấm lòng niềm tin.
Đảng ta Mác – Lê-nin vĩ đại
(TH – Ba mươi năm đời ta có Đảng)
Thà mất đầu, không chịu cúi đầu im!
Tôi nhả mũ. Chào Lê-nin vĩ đại
(TH – Trước Kremlin)
Từ một cốt “chuyện hay” để đưa đến một “phim hay” cũng là cả một nhiêu khê qua nhiều thông số.
Kể cũng lạ, chưa qua cổng “thợ” đã mơ làm “thầy”, nhưng mà chuyện này hình như cũng “không có gì lạ cả”.
Ông mục sư “I have a dream…” thì ông đại tướng cũng nói: “Je rêve que…”
Mà khi mơ thì phải “có tầm hiện thực” đi theo chứ bộ. Mớ rằng tới năm nào đó “chúng ta sẽ đào tạo được 20.000 TS” thì cũng là để cho thằng “dân ngu” nào đó “hãnh tiến” với cái vần “đất nước ta giàu, dân ta thông minh, cần cù, nhẫn nại” chứ. Chưa hết: “trong 10 năm tới, cố gắng thu hút vài trăm, thậm chí 1.000 nhà khoa học Việt kiều về làm việc tại các cơ sở giáo dục VN”, tiện thể đu theo luôn “sợi chỉ đỏ” một cái nhảy “đi ngay vào hiện đại” với cái tàu cao tốc ấy. Chuyện nhỏ ngày mai “Thánh Gióng” sẽ vươn vai một cái là đi tới thăm chị Hằng liền. Đó là những thứ “sáng tạo không ai ngờ tới” như màn đu bay cho cả đám “Hai Lúa” nhiều đất lắm nước. Nào “bước tiến đột phá”, nào “canh giữ hòa bình”, nào ai cười đâu, tại sao không? Chúng nó “đại ngu” lắm đấy. Ngu gì mà hỏi. Có đứa nào “có mạng” này không?
http://dantri.com.vn/c20/s20-402678/ban-do-duong-nuoc-dan-thu-do.htm
Nay nói chuyện phim, tình cờ thấy được cái phim Hàn này:
http://www.mysoju.com/welcome-to-dongmakgol/
Không “vĩ đại” nhưng hay, có ý nghĩa, ít ra cũng hay hơn cả khối phim Việt tôi được xem từ trước tới giờ.
Enjoy.
“Tác giả bài viết có một sự hiểu biết khá khập khiễng về điện ảnh, bàn về một khu vực mình không có những hiểu biết, biện biệt căn bản nên sự hàm hồ là không thể tránh được.”(Phùng Tường Vân)
Đọc lời PH này của bác Phùng, rồi liên hệ với PH của bác Khiem, tôi đã không nhịn được mà phải “phì cười” khi tưởng tượng ra cảnh tác giả NKTA đang “khập khiễng” cầm dao phay mổ con gà “văn học và điện ảnh VN”. Về vấn đề “Khi nào Việt Nam mới có một đại tác phẩm hay một cuốn phim vĩ đại?”, thì tôi nghĩ, có lẽ phải chờ một thời gian khá dài nữa mới may ra, đầu tiên là có “đại tác phẩm” đã, sau đó từ “đại tác phẩm” này mà có thể chuyển thể thành “phim vĩ đại” được. Theo những hiểu biết của tôi về loại hình nghệ thuật thứ 7 là ngành Điện ảnh này, các “phim vĩ đại” của thế giới đều được chuyển thể từ những “đại tác phẩm”. Mà nói về cái sự “VN sẽ có hay không có “đại tác phẩm”?”, “các nhà văn VN có sáng tác được những “đại tác phẩm” để đời không?”, hay nói cách khác là “tầm sáng tác” của nhà văn VN có đạt đến “tầm thế giới” không, thì không gì bao quát và chính xác bằng nhận định của nhà văn Phạm Thị Hoài, rằng “…người làm văn hoá, văn nghệ trong nước ngày nay phải tự hướng đạo thay vì tự lãnh đạo. ‘Hậu đổi mới’ là thời kỳ hoàng kim của tự kiểm duyệt”. Nhiều người thường hỏi tôi: “Ở Việt Nam có được tự do viết không?” Câu trả lời là: “Ở Việt Nam có tự do muốn viết gì thì viết. Nhưng chị coi tầm nghĩ luôn luôn là tầm viết”. Vì thế câu hỏi, theo tôi, phải là: “Ở Việt Nam có được tự do nghĩ không?” (trích Phạm Thị Hoài) Thực tế ở VN hiện giờ cho thấy, “tầm nghĩ” và từ đó “tầm viết(sáng tác)” của các nhà văn VN chưa thể gọi là “tầm thế giới” được. Với cái hiện trạng của Hội Nhà Văn VN, như phát biểu của Phêrô Bùi trên tienve.org “Tôi không khỏi ái ngại, đã gần “cổ lai hy” mà ông vẫn chưa vỡ được cái nhẽ chúng tôi, những công-dân-của-Saigon-tự-do, vốn từ đầu đã hết sức tội nghiệp cho cái gọi là Hội Nhà Văn Việt Nam của ông (mà theo ông Nguyễn Hòa thì mỗi năm được nuôi béo bằng hàng bao tỉ VND, trong ấy tất nhiên có cả tiền thuế những người lao động lương thiện như chúng tôi đóng), nghe bảo hội viên đến cả nghìn, song số lượng cùng chất lượng tác phẩm như thế nào thì mọi người đều biết.”, thì có lẽ chúng ta sẽ phải đợi “dài dài” cho đến khi VN có “đại tác phẩm” và “phim vĩ đại”. Trong thời gian chờ đợi, tôi “thưởng thức nghệ thuật” bằng cách đọc những “tác phẩm hàm hồ” và xem những “phim khập khiễng” vậy!
Bài viết có tên “Khi nào Việt Nam mới có một đại tác phẩm hay một cuốn phim vĩ đại?”
Nguyễn Khoa Thái Anh nhập đề: “Phải nói rằng Việt Nam chưa có một đại tác phẩm nào – trong tiểu thuyết cũng như phim ảnh – có thể sánh với nỗi trầm kha thống khổ và dai dẳng của một dân tộc bất hạnh.”
Rồi cuối cùng Nguyễn Khoa Thái Anh cho rằng câu chuyện bà Đào Thị Minh Vân sang Mỹ tìm nguyên nhân cái chết của ông Đào Phúc Lộc, liệt sĩ CS, là “có thể góp phần cung ứng tư liệu cho những tác phẩm tầm vóc sau này”.
Ông Nguyễn Khoa Thái Anh là người Huế, nhưng có lẽ ông không hề thấy câu chuyện nào trong vụ thảm sát Tết Mậu Thân đáng gọi là “thương tâm” hơn chuyện bà Vân đi tìm nguyên nhân cái chết của cha.
Có lẽ cái chết của liệt sĩ chống Mỹ thì mới đáng trở thành tác phẩm lớn, phải không ông Thái Anh?
Bài viết và nhan đề chẳng liên quan gì với nhau.
Tôi biết Talawas có thể tôn trọng quyền tự do phát biểu, nhưng làm ơn có sự biên tập một chút . Ít ra cũng góp ý với tác giả là thay đổi cái tựa đề đi chứ. Mất uy tín quá. Có cảm giác Talawas hiện đang trở thành cái chợ chồm hổm, bài hay thì có, nhưng bài rác quá nhiều.
ông NKTA dùng dao phay mổ gà!?
Với cái đầu đề là “Khi nào Việt Nam mới có một đại tác phẩm hay một cuốn phim vĩ đại” người viết cho người ta hiểu đó phải là những tác phẩm, những cuốn phim do người Việt Nam viết, do những đạo diễn Việt Nam thực hiện, những tác phẩm, phim…có tầm vóc xứng đáng với lịch sử vừa hào hùng vừa bi thảm của lịch sử đất nước. Không thể kể vào đây những thể loại nghệ thuật ấy do người nước ngoài viết (tiểu thuyết),thực hiện (điên ảnh), chính vì có sự hàm hồ ấy nên tác giả đưa ra những thí dụ so sánh, về điện ảnh chẳng hạn, hoàn toàn không chính xác : Phim Doctor Zhivago là phim Mỹ không phải là phim Nga, phim The Killing Field chủ yếu cũng là phim Mỹ không phải phim của người Khmer, rồi đến phim The Last Emperror cũng vậy, đâu phải là phim Trung Quốc. Thực ra, chỉ hạn chế ở khu vực điện ảnh, nếu muốn “nhìn sang láng giềng” thì phim Nga phải kể đến “Come And See” của Đạo diễn Klimov (1985) và nếu muốn có một so sánh khít khao hơn về hoàn cảnh lịch sử thì phải kể đến Phim của Algeria “The Battle Of Algiers” của đạo diễn Saadi Yacef…
Tác giả bài viết có một sự hiểu biết khá khập khiễng về điện ảnh, bàn về một khu vực mình không có những hiểu biết, biện biệt căn bản nên sự hàm hồ là không thể tránh được .
Với tựa bài viết:” Khi nào Việt Nam mới có một đại tác phẩm hay một cuốn phim vĩ đại? </i?", Nguyễn Khoa Thái Anh dẫn tới kết luận : những mẩu chuyện thật như câu chuyện dưới đây của một người con đi tìm cha hơn 40 năm sau cái chết của ông mới thật thương tâm, may ra có thể góp phần cung ứng tư liệu cho những tác phẩm tầm vóc sau này .
Người cha ở đây là ông Hoàng Minh Đạo tên thật Đào Phúc Lộc, sinh ở Móng Cái năm 1939 và chết trên sông Vàm Cỏ Đông, năm 1960, không tìm thấy xác, nhưng tài liệu Wikipedia tiếng Việt cho biết di hài của ông được an táng tại nghĩa trang liệt sĩ thành phố Hồ Chí Minh, được truy phong ( muộn màng) là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 1998 và truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh năm 1999.. Cuộc đời hoạt động của ông đã được viết thành sách và dựng thành phim trên truyền hình ở VN.
Có lẽ mục đích chính của NKTA khi viết bài này là giới thiệu và đưa Hoàng Minh Đạo lên thành nhân vật của huyền thoại trong chiến tranh chống Mỹ như bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm (như báo chí trong nước đã viết về “Khúc bi tráng trên sông Vàm cỏ”, “Cái chết bất tử của một người cộng sản”…). Nhưng ở đây NKTA không làm thế bằng những chứng tích, thành tích của chính ông HMĐ, mà bằng chuyện cô con gái lớn 40 năm sau qua tận bên Mỹ, đến tiểu bang Texas, tìm hiểu về cái chết của cha mình (nhân một chuyến đi nghiệp vụ ở Florida). Đối với NKTA đó là chuyện thật thương tâm và có thể đưa tới những tác phẩm tầm vóc sau này . Tôi thấy kết luận như thế là thiếu cơ sở hay dễ dãi, vì những cái chết vì bom đạn dù của dân hay quân nhân ở hai bên thời đó không phải chuyện lạ, chỉ khi sau thời gian rất dài còn muốn tìm hiểu tại sao cha bị phục kích chết mới có gì khá bất thường trong đó, nhưng chưa chắc gây thương tâm cho nhiều ngườì. Chuyện cho tời bây giờ nhiều người Mỹ hay Việt dù bên nào vẫn còn đi tìm xác của thân nhân chết trong cuộc chiến hay sau đó, bị vùi dập ở núí rừng, trong hố chôn tập thể hay quanh trại cải tạo, thấy thương tâm hơn. Cũng có những chuyện khác khiến phải ngậm ngùi như nhiều trẻ mồ côi trở về nhận lại cha mẹ, tìm kiếm lại lý lịch bản thân. Trường hợp con ông Phạm Quỳnh im lặng về cái chết của cha mình có đáng thương tâm không ?
Chắc chắn khi viết bài này NKTA đã đọc bài tường thuật ghi lại nhận định của ông Steve Maxner, giám đốc Trung tâm Văn khố Việt Nam ở Đại học Texas Tech: ” Ông ấy hoạt động trong tình hình gay go, lính Mỹ thường tuần tra, phục kích ở vùng sông đó, và bất cứ ai vượt qua sông đều bị coi là địch. Nếu phía Mỹ có tin tình báo về chuyến vượt sông đêm đó thì tài liệu đã nói tới, và nếu họ biết có ông HMĐ với cấp bậc như thế, đã tìm cách bắt sống ông thay vì giết chết” (dịch tóm lược).
Tôi nghỉ lính Mỹ trên tàu khi thấy toán người di chuyển khá đông đã gọi trực thăng tới, và do báo cáo của người quan sát trên trực thăng mà pháo binh được sử dụng.
Nhưng tại sao bà Minh Vân bây giờ vẫn đi tìm kiếm nguyên nhân cái chết của cha, chỉ có thể vì nghi ngờ cha bà bị phản bội, bị “bán đứng” khi ai đó báo cho Mỹ biết. Các đồng chí cũ của ông HMĐ có các ông Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt (đều trả lời phỏng vấn của bà), và nhiều người khác hoạt động trong vùng Củ Chi – Trảng Bàng (vài vị này là cấp tá và tướng đã về hưu nhưng còn sồng). Nếu tìm ra sự thật về cuộc phục kích trong đêm hôm đó, chuyện về ông HMĐ sẽ là một chuyện rất hay, đáng dựng thành phim không ? Tôi lại nghĩ ông NKTA muốn nói tới chuyện của bà Đào Thị Minh Vân và ông Hoàng Minh Đạo hơn chuyện phim vĩ đại mà VN có thể làm.
Sau cùng, tôi nghĩ Những tháng năm cuồng nộ của K. Đ. viết về những con người sống ở một làng quê nhỏ, từ rất bình thường đến tầm thường, có thể trở thành chuyện phim hay.