Nhượng Tống – Tận trung báo quốc (Hồi 1 & hồi 2)
26/10/2010 | 11:50 chiều | Chức năng bình luận bị tắt ở Nhượng Tống – Tận trung báo quốc (Hồi 1 & hồi 2)
Category: Sáng tác, Tư liệu
Thẻ: Hoàng Diệu > Ông Ích Khiêm
(Sự tích cụ Hoàng Diệu tử tiết với thành Hà Nội)
Ca kịch chèo cổ 4 hồi 4 cảnh
Giáo Đầu
Dịp một
Đã thân đạp đất đội trời,
Dễ cam chịu kiếp tôi đòi được đâu,
Quyết một phen rụng máu rơi đầu,
Đắp nền bình đẳng, xây lầu tự do
Trời chung không đội với quân thù.
Nói sử
Nước nhà có phúc,
Dân chúng một lòng,
Chúc Việt Nam độc lập thành công,
Trời đất mới, non sông thêm mới,
Gương lịch sử nhìn qua mây khói,
Chuyện Hoàng công còn mãi áng trung trinh,
Buổi gian nguy vì nước quên mình,
Quyết một dạ theo thành cùng sống chết.
Hai mươi triệu con dân đất Việt,
Qua cửa đền Trung liệt nhớ hay không?
Còn giống nòi, còn có non sông,
Hãy thắp nén hương lòng cầu nguyện.
Ngâm thơ
Thơ rằng:
Bể đổi, dâu thay, ngày biến chuyển,
Trời kinh, đất nghĩa, một cương thường.
Hát sắp
Vũ trụ mênh mang, thế giới mênh mang!
Đầ xanh chớ phụ, lòng vàng chớ phai.
Gái hay trai, cho trọn đạo làm người.
(láy lại)
Hồi thứ nhất
Cảnh thư phòng
Phía trong treo mấy bức tứ bình, phía ngoài một sập ngồi, trên sập có điếu tráp. Trước sập, một án thư, trên bày các đồ văn phòng, lại có để mâm chén. Ngoài án thư, một bàn tròn, hai bên bốn ghế vuông hay trường kỉ. Màn mở lên giữa lúc Ông Ích Khiêm đang ngồi một mình.
Lớp I
Ông Ích Khiêm
Ông Ích Khiêm: (ngồi một mình uống rượu suông, ngâm)
Ối trời! ối đất! ối già ôi!
Say hát càng cay nỗi nước đời!
Hèn mọn nên thân khi vận tấy;
Anh hùng nuốt giận lúc công toi.
Giúp vua trục muốn xoay ngang đất,
Cổi giáp song khôn với tận trời.
Thù nước chưa đền đầu vội bạc,
Gươm mài mấy độ ánh trăng soi.
Nói sử
Dân con đất Việt,
Dòng dõi vua Chiêm
Tôi họ Ông, tên gọi Ích Khiêm
Học khắp sách, tài kiêm văn võ.
(Chỉ vì tôi:)
Tánh ngay thẳng không quen xu phụ,
Nên chi đầu này đã toan lìa cổ mấy lần,
May nhờ ơn Thánh Hoàng là bực minh quân,
Tôi đã không bị bọn triều thần hãm hại!
Bớ triều thần! Bớ phường bại hoại!
Vì các người mà nên nông nỗi lúc này,
Đất miền Nam khôi phục không ngày,
Thế xứ Bắc cũng lung lay hết nói!
Nghĩ, càng nghĩ càng căm, càng tủi
Đành lẽ, mượn chén cay, ta trốn khỏi thành sầu!
Dưới mái nhà lửa đã đốt đầu
Vậy mà, phường cẩu trệ vẫn tranh nhau xôi thịt!
– Bớ, Hề con!
Lớp II
Thêm vai Hề
Hề: Dạ! (bước vào)
Ông Ích Khiêm:
Tiếng ai hát ngoài đường thảm thiết?
Gọi vào đây, ca nhăng nhít, lão nghe chơi!
Hề: Dạ! (bước ra)
Lớp III
Bớt Hề
Ông Ích Khiêm (ngâm):
Cơ trời vận nước, biết đâu lường!
Nhìn đến dân tình đứt ruột thương!
Gái dệt hở vai, manh áo bạc!
Trai cày lép bụng, bát cơm vàng!
Phá nhà, người sợ quân đầu núi,
Lả chết, ai chôn xác dọc đường?
Nghĩa nặng ơn sâu, chưa báo đáp,
Đèn xanh một ngọn, lệ muôn hàng!…
Lớp IV
Ông Ích Khiêm và hề
Hề (vào): Bẩm Ông! Có vợ chồng bác xẩm đợi ở bên ngoài.
Ông Ích Khiêm (gật đầu): Gọi họ vào, ta đang lúc ngồi rồi thư thả
Hề: Dạ! (lui ra)
Lớp V
Ông Ích Khiêm, vợ chồng người xẩm
Vợ chồng xẩm (dắt nhau vào): Lạy quan lớn! Lạy quan lớn ạ!
(Vợ xẩm trải chiếu)
Ông Ích Khiêm:
Các bác ngồi! Hát lão nghe, hát khá lão cho tiền!
Vợ xẩm:
Bẩm! Có bài hát của cụ Trương Công Định gửi người quen. Kể hay lắm, con xin hát trước!
Ông Ích Khiêm (gật đầu): Được! Được!
Xẩm (so dây đàn) – Vỉa
Não người cữ gió tuần mưa…
Non sông trùm kín bóng mờ hoàng hôn
(Sa Lệch)
Dân không nước, nước không hồn!
Tháng ngày vong quốc, đau buồn mông mênh
Đêm qua mưa gió, giật mình,
Năm canh giấc mộng không thành cả năm!
Đọa đày trong cảnh giam cầm,
Bùn than biết bạn ăn nằm nơi nao?
Áo cơm mình chẳng đủ nào!
Lấy gì thương được đồng bào ấm no?
Một lần thua, ba bảy lần thua,
Bây giờ dựng nổi cơ đồ gian nan?
Bâng khuâng gió sớm trăng tàn…
Xẩm: Giờ có bài này xin hát hầu quan, ấy là bài hát “Xẩm xoan tự thán!”
Ông Ích Khiêm (gật đầu): Được! Được!
Vỉa
Đêm qua hỏi liễu thăm đào,
Giang sơn ai nhớ, đồng bào ai quên?
Xẩm (chèo):
Cuộc đời điên đảo, đảo điên
Giận đời anh vốn không nhìn đã lâu!
Mông mênh muôn dặm Thần châu,
Mây mù kín mít, anh trông đâu bây giờ?
Bốn nghìn năm văn hiến nước xưa,
Đến tuần hắc ám, ai ngờ lại có ngày nay!
Ôi! Thương ôi! Trời thảm đất dày,
Ngàn trùng ngục tối, dẫu ngày như đêm!
Cơ nguy vong, ai ôi! mở mắt mà xem,
Đừng tưởng tôi quen thói luồn kim nói mò!
Ngán thay có mắt như mù,
Thịt dao, cá thớt, chẳng đoái thương cho tình cảnh đồng bào,
Cứu nước, cứu dân, ai là mặt anh hào,
Đáng để cho tôi lọt vào con mắt xanh?
Biết bao nông nỗi bất bình,
Tài hèn sức kém, tôi cũng đành nhắm mắt đưa chân!
Ấy ai người đồng bệnh tương lân?
Quang minh đường trước, ta quyết cùng lần cho ra.
Mắt mù, lòng tôi chẳng chịu lòa!
Ông Ích Khiêm:
Hay! Hay! (Đứng dậy cho xẩm chén rượu)
Ta thưởng cho bác chén rượu hoàng hoa,
Bài hát ấy của ai? Hay là của bác?
Xẩm (uống rượu):
Chính bài hát tôi làm độ trước.
Ông Ích Khiêm:
Thế thì bác phải là người lỗi lạc trong đời,
Anh hùng không đoán nổi giữa trần ai,
Tôi có mắt khác gì người không mắt!
Tội nghiệp! Tài học như thế mà trời xui tàn tật!
Thôi ngồi đây, ta cùng xúc tất đàm tâm.
Xẩm (ngồi xuống sập)
Tôi họ Trần, tên gọi Kỳ Lâm,
Quê Hà Tĩnh, vào Nam làm thư lại,
Khi sáu tỉnh đổi tay chủ mới,
Tôi bị họ bắt giam và dỗ mãi làm quan,
Cự họ ra, chắc chắn chết oan,
Nhưng nghe theo họ, sao cho toàn danh tiết.
Nước đã mất, đời tôi đâu có thiết,
Nhưng thương mẹ già, tôi liều chết chưa đành.
Suốt mấy đêm tính quẩn lo quanh,
Tôi mới móc đôi mắt cho đời thành vô dụng
Thấy tôi mù, họ liền thả lỏng,
Tôi mới đem gia đình lạc lõng chạy về đây.
Kiếm ăn quanh quẩn mới giở trò này
Vợ chồng nuôi mẹ cho qua ngày đoạn tháng.
Ông Ích Khiêm (thở dài, mở tráp lấy bạc)
Tội nghiệp quá, bạc tôi còn mấy lạng
Xin biếu bác, sớm hôm phụng dưỡng mẹ già.
Miễn bác biết trung với nước, hiếu với nhà,
Dù mất mắt, chưa hẳn là vô dụng.
Với những bài hát thương nòi xót giống
Bác có thể gần xa, cổ động khắp nơi,
Hồn quốc gia, vốn giữ ở lòng người,
Ca kêu gọi hoài hoài, âu phải tỉnh.
Xẩm:
Cám ơn quan lớn đã thương đời tôi bất hạnh,
Vâng lời vàng, tôi xin bái lĩnh cả lòng vàng.
Lớp VI
Các vai trước, thêm hề
Hề (từ ngoài đi vô):
Con vừa ra trước tiền đường,
Có quan Hoàng Diệu hiện đương ngồi chờ…
Ông Ích Khiêm:
Thế a con? Hẳn quan Hoàng muốn mời ta cùng đi Hà Nội.
Mời Ngài vô đây, ta khỏi phải mất công ra!
Hề: Dạ! (lui ra)
Lớp VII
Các vai trước, bớt hề
Xẩm (đứng dậy):
Bẩm quan lớn, lòng đã gần, chi có điều xa
Tôi xin tạm biệt, kẻo nhà có khách.
(Vợ chồng xẩm vái chào và lui ra)
Lớp VIII
Ông Ích Khiêm, Hoàng Diệu
Hoàng Diệu (vào):
Chào quan anh!
Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách,
Lúc này phải đâu lúc chúng mình đọc sách ngâm thơ?
Ông Ích Khiêm (đứng dậy cười):
Mời quan anh ngồi.
Bình thời giảng võ, loạn thế độc thư!
Lo việc nước đã thừa người tài giỏi.
(cùng ngồi)
Hoàng Diệu (vào ngồi)
Quan anh hẳn đã biết tin dữ dội:
Ông Nguyễn Tri Phương vừa ngộ hại cả toàn gia
Hiện nay chức Trấn thủ Bắc Hà,
Các văn võ chẳng ai là dám nhận!
Thánh Thượng đã lôi đình nổi giận.
Quở Triều thần toàn là phường ăn sẵn ngồi không!
Lúc thời bình, bàn láo, nói ngông,
Khi biến cố, thảy hai lòng sợ chết!
Sĩ khí hỏng, nhân tài cũng hết
Giang sơn này, cùng gánh vác biết trông ai?
Ông Ích Khiêm (cười):
Thì cho bọn hủ nho thế mới đáng đời,
Chúng hèn nhát, quả có như lời Thánh thượng!
Chúng chỉ nghĩ sao cho vợ con sung sướng!
Thương gì dân, mà dân tưởng đến vua!
Ví phỏng mồ cha mả mẹ, có người mua,
Được phú quý, chúng cũng đua nhau đem bán!
Hoàng Diệu:
Nghe Thánh thượng mấy lời truyền phán,
Lòng riêng tôi đau đớn vô cùng!
Ba trăm năm nuôi rẫy vun trồng,
Lúc này, đã không sao có được một Kẻ Sĩ có thể chung lo quốc sự
Chủ ưu thần nhục, chủ nhục thần tử.
Chúng ta ai là không nhớ chữ thánh hiền?
Vua không yên, tôi há dễ ngồi yên?
Này là lúc đem xương máu báo đền đất nước!
Bởi vậy tôi đã không quản tài sơ đức bạc,
Tự dấn mình vào bước gian nguy!
Hiện Thánh thượng đã chuẩn cho tôi ra trấn thủ Bắc Kỳ,
Mặt quân sự, mong quan anh sẽ giúp vì tiểu đệ…
Ông Ích Khiêm:
Khi Tổ Quốc cờ đương nước bí,
Kẻ sĩ phu đâu có quyền nghĩ đến thân
Với bọn chúng, ta có làm ăn gì được!
Đó là bọn mọt dân, giặc nước!
Đặt thân gia lên trước quốc gia!
Bụng nhỏ nhen, mắt chẳng trông xa,
Thấy nước đục, đua nhau mà thả lưới…
Bám địa vị, bon chen tài lợi,
Trên dối vua, rồi dưới khoét dân!
Bày mưu mô, đuổi hết kẻ trung thần,
Kéo bè đảng hại lần người trí dũng
Kìa Trần Bích San, nọ Trương Quốc Dụng.
Trước Thánh Hoàng, chúng đều tán tụng khen lao
Tiến cử cho chức trọng quyền cao,
Nhưng cốt là để đưa dần vào đất chết…
Hoàng Diệu:
Kể việc nước thì thật là nát bét!
Tôi phải đâu không biết như anh!
Nhưng nếu giang sơn không có bất bình,
Trời biển đâu có mượn chúng mình vá lấp.
Trước biển rẫy, dưới trời sắp sập,
Chống đỡ sao? Be đắp ra sao?
Kẻ nam nhi âu phải xắn tay vào,
Hết công sức mới trông vào số mạng.
Phúc phải cân, họa ta phải tránh,
Trách chi phường gian nịnh nghĩa trung trinh
Việc quốc gia bổn phận chúng mình
Không thể kiếm cớ để làm thinh, làm biếng.
Dù có chỉ mặt chúng chưởi cho sướng miệng
Hay ôm đầu nhau mà khóc đến điếng người…
Nếu cứ khoanh tay đứng, bỏ tay ngồi…
Với Tổ Quốc, chính ta là loài phản bội!
Ông Ích Khiêm:
Đành rằng bàng quan lúc này là có tội
Với ngàn xưa, và với ngàn sau!
Nhưng một tay vê đã chắc tròn đâu!
Huống chi lại trăm tay khác, nhâu nhâu, rình bóp bẹp!
Hoàng Diệu:
Thế thì anh nhất định không giúp tôi thu xếp
Việc Bắc Hà, cơ nghiệp Tổ Tiên xưa?
Mặc nhân dân khóc sớm kêu trưa?
Mặc sông núi bùn nhơ bụi phủ?
Ông Ích Khiêm:
Đạo ưu ái đâu phải em chẳng rõ;
Nhưng xin quan anh, đừng bó buộc nhau…
Làm không xong, làm có ích gì đâu?
Vậy mà, nghĩa cầu chết, chết một anh, âu cũng đủ.
Dù tính việc quát mây, thét gió,
Làm ngày nay, còn phải ngó ngày mai!
Chết cả đi, nước sẽ không người
Hỏi Tổ Quốc tương lai, ai gánh vác?
Hoàng Diệu:
Chí hướng ta mỗi người một khác!
Trên đường đời, từ đây mỗi bước một xa!
Miễn sao đừng tự dối người, đừng tự dối ta,
Lúc nào cũng nhớ đến quốc gia là đủ!
Ông Ích Khiêm:
Ơn đất nước không bao giờ dám phụ,
Trông phương trời mây gió đê mê!
Tráng sĩ đi, đi chẳng lại về,
Xin chúc bác, giữ trọn lời thề Báo Quốc
Hoàng Diệu: (đứng dậy cầm tay Ông Ích Khiêm):
Tôi tự biết tài hèn sức bạc
Chỉ tự tin có được tấm lòng,
Miễn ở sao cho trọn đạo hiếu trung
Còn sống, chết, cùng, thông, đâu dám biết!
Này là lúc sinh ly mà tử biệt
Tôi cũng chúc cho sự nghiệp anh,
oanh liệt gấp ngàn muôn!
Trước sử xanh tự hỏi tấm lòng son,
Chết không khó, sống còn âu mới khó!
(Buông tay bạn, chắp tay vái chào)
Màn hạ thật mau
(Hết cảnh thứ nhất hồi thứ nhất)
Hồi thứ hai
Cảnh thư phòng
(Bài trí như cũ. Màn mở giữa lúc Hề đang lau bàn ghế)
Lớp I
Hề
Hề (vừa lau bàn ghế vừa hát)
Vỉa:
Đêm đêm chớp bể mưa nguồn,
Hỏi người trí thức có buồn cùng chăng?
Ví dầu
Đầu làng tôi, có một cây măng,
Gió Nam gió Bắc, gió đập động rừng, tươi vẫn còn tươi!
Gió bốn phương tung cuốn bụi đời,
Lòng son không bợn, mới là người thanh cao!
Đường trường tứ quý:
Người thanh cao, giờ ở nơi nào?
Giang sơn ai nhớ, đồng bào ai thương?
Máy huyền vi mở đóng khôn lường
Trời chiều ai đứng, đường trường ai đi?
Nhớ thương ai, tôi giọt lệ đầm đìa!
Nói:
Mặt mày lem luốc
Áo quần lê thê
Chính thực tôi tên gọi thằng Hề
Thổi cơm sống, quét nhà không sạch rác!
Đêm mò mẫm tội tình hơn vạc
Ngày làm ăn tôi chậm như sên
May chủ tôi là bậc Đại Hiền,
Nên tôi cũng sắp sửa trở nên ông Đại Lãn.
Tôi nghĩ như tôi: ở đời thế, thế là sướng chán
Còn hơn ai bà lớn với ông to!
Cơm chủ nhà tôi phưỡn bụng đánh no,
Tiền bán nước, tôi chẳng thò tay lấy
Bồng mạc:
Nào Tuần là ai? Nào Án là ai?
Nào Khanh là ai? Nào Tướng là ai?
Các ông ngựa xe, các ông võng lọng, nỡ quên dân, nỡ quên nước, quyền dân lợi nước thiệt thòi ông nỡ quên!
Sa mạc:
Mây Xuân biến đổi muôn ngàn
Giàu sang bất nghĩa có bền được đâu.
Xanh rì một nấm cỏ khâu
Giết dân, bán nước, công hầu là ai?
Lớp II
Hề, Hoàng Diệu
Hoàng Diệu (từ ngoài đi vào)
Bạch:
Rừng xương, sông máu, muôn dân chết!
Giá áo, thùng cơm, vạn sống thừa!
Nghĩa nước, ơn dân, chưa báo đáp,
Tằm già thương kén chẳng thành tơ!
(vô án ngồi)
Nói:
Thi Thư kế thế,
Trung hiếu truyền gia!
Người Quảng Nam Hoàng Diệu là ta
Ơn nước nặng, tình nhà càng thắc mắc
Hề con! vô mời Cố ra chơi nhà trước!
Và mời cả Bà ra cho ta phó thác việc gia đình.
Hề: Dạ (lui ra).
Lớp III
Hoàng Diệu một mình
Hoàng Diệu (ngâm):
Mưa gió trời Nam đã phũ phàng!
Lửa binh đất Bắc xiết đau thương!
Cơ đồ tổ nghiệp ai gìn giữ?
Một tấc giang sơn một tấc vàng?
Lớp IV
Hoàng Diệu, Hoàng phu nhân, Thái phu nhân
Hoàng Diệu (trông thấy Hoàng phu nhân đỡ Thái phu nhân vào, vội đứng dậy):
Lạy mẹ ạ! Xin mời mẹ ngồi chơi thong thả
Đặng cho con đem gan dạ giãi bày
(dắt Thái phu nhân ngồi lên sập, hai vợ chồng đứng hầu hai bên)
Thái phu nhân (chỉ tay bảo vợ chồng Hoàng Diệu):
Cho các con được phép ngồi đây! Ngồi đây!
Hoàng Diệu và Phu nhân:
Dạ! (ngồi vào hai bên ghế)
Thái phu nhân: Có việc chi con khá nói ngay mẹ rõ,
Từ hôm có tin Hà Thành thất thủ,
Càng ngày càng thấy con mặt võ mình gầy.
Hoàng Diệu:
Thưa mẹ! Việc Hà Thành thất thủ bấy lâu nay,
Chính Thánh Thượng cũng đêm ngày buồn bã
“Tôi phải chết khi vua nhục nhã”
Lúc này là lúc con phải đem hình hài mà đền trả nợ non sông.
Chỉ nghĩ thương mẹ già đầu bạc răng long,
Sao cho được Hiếu, Trung toàn vẹn cả…
Thái phu nhân (vỗ vai con):
Ồ con mẹ! Sao con nói năng vơ vẩn lạ!
Cha dạy sao? Con đã quên sao?
“Bé là con của mẹ cha dưỡng dục cù lao,
“Nhưng lớn, con phải là người của Đồng bào Tổ Quốc”
Trung với Hiếu, nghĩ cho cùng đâu có khác
Nhà còn đâu, khi nước đã không còn?
Hiếu là Trung của kẻ làm con
Trung là Hiếu với linh hồn đất nước
Chết vì nước, chết thơm tho, lỗi lạc,
Mẹ mất con, nhưng con tròn được đạo người!
Sống lấy thân, ai không chết khi tám, chín, mười mươi,
Nhưng chết cho nước, con sẽ sống muôn đời bất diệt
Trong giây phút, trước hai miền sống, chết,
Dù đường cùng, con phải biết tích cho thông
Con chết ngay mẹ cũng bằng lòng
Xin con nhớ cho mẹ chữ “Tận Trung Báo Quốc”
Hoàng Diệu:
Lời mẹ dạy, con xin ghi tạc
Xin một lòng vì nước quên nhà
Sớm nay bàn đến việc Bắc Hà
Triều đình đã cử con ra trấn thủ
Ngay ngày mai con phải đăng trình cử bộ
Cả gia đình thực khó đem theo
Đất Hà Thành đương lúc hiểm nghèo
Chuyện đường sá lại còn nhiều khúc chiết
Lòng thương nhớ, con nói sao cho xiết
Ngay từ nay con xin bái biệt mẹ già…
(Quỳ lạy hai lạy)
Hoàng phu nhân: (đứng dậy)
Thưa phu quân!
Đền ơn vua, chàng tận tụy với bang gia
Báo hiếu mẹ, việc cửa nhà mặc thiếp
Thiếp sẽ cho dì Hai đi theo phu quân
Để giúp đỡ việc trong nhà ngoài bếp
Còn thiếp, thiếp sẽ cùng mẹ già thu xếp chuyện về quê
Thái phu nhân (cười)
Thôi cho vợ chồng con được trò chuyện hả hê
Phòng trong hãy mặc ta về yên nghỉ.
Thái phu nhân: (đứng dậy vào ; vợ chồng Hoàng Diệu tiễn ra cửa , rồi quay vào cùng ngồi)
Lớp V
Vợ chồng Hoàng Diệu
Hoàng phu nhân
Lời mẹ dạy, phu quân nên nhớ kỹ
Thế, Triều đình đã nhất định ngày mai phu quân sẽ lên đường?
Hoàng Diệu:
Vâng, sớm ngày mai, tôi phải đi tự tinh sương
Hoàng phu nhân:
Người phù tá, chẳng hay phu quân đã kiếm được ai là kẻ giỏi giang thao lược?
Hoàng Diệu:
Hẳn bà còn nhớ Long, Hổ học trò tôi hồi trước
Họ đã bằng lòng theo tôi giúp sức hôm mai
Sách vở thông, cung kiếm đủ tài
Phó bảng võ cả hai vừa mới đỗ
Việc tham mưu tôi định nhờ bác Ích Khiêm giúp hộ
Nhưng “Ông tướng khùng” kêu khó, chối từ.
Hoàng phu nhân:
Cuộc nhân sinh biến đổi tình cờ
Thiếp thấy hoảng hốt y trong mộng
Nay là lúc cửa nhà ấm cúng
Mai thôi đà hình bóng đôi nơi
Dạ nhớ thương cách trở một phương trời
Sức phù hộ đành trông cả mười phương Phật
Công việc bộn, thì giờ lại ngặt
Chỉ còn có lúc này là vợ chồng họp mặt cùng ngồi
Vậy dưới đèn khuya thiếp xin chúc chén ly bôi
Để tiện giãi bày đôi lời tiễn biệt
Hoàng Diệu (gật đầu):
Mười phần chắc dấn thân vào đất chết
Một ra đi nào biết có ngày về!
Hơn mười năm tình nghĩa phu thê
Tôi cũng muốn mượn chén để nhắc lời thề sơn hải.
Hoàng phu nhân:
Hề con! Dì Hai hẳn đã sắp xong bữa tối
Con bưng mâm đây, và gọi Dì ra (cầm bút viết bài ca)
Lớp VI
Hề, vợ chồng Hoàng Diệu
Hề:
Dạ! (bưng mâm rượu vào , rồi quay ra)
Lớp VII
Dì Hai, vợ chồng Hoàng Diệu
Dì Hai
Vỉa
Vẳng tai nghe tiếng chàng đòi
Son tô, phấn đánh, lược giắt trâm cài em bước ra
(vào)
Nói:
Thưa quan, thưa chị, em đã ra hầu
Hoàng phu nhân:
Dì ngồi đây!
(Chỉ ghế mời Dì Hai ngồi)
Phu quân phải ra trấn thủ Bắc Hà,
Sớm mai đã phải đường xa dong ruổi,
Dì sẽ theo phu quân mà trông nom sớm tối,
Để cho tôi đưa mẹ già trở lại quê nhà
Buổi tiễn hành chúc chén quan hà!
Cổ nhân thường lấy lời ca thay tiếng khóc
Dì hãy thay tôi mà ca mấy khúc
Để tiễn phu quân trong lúc lên đường
(đưa bài ca cho Dì Hai)
Dì Hai:
Vâng! (Cầm chén rót rượu mời)
Huỳnh hãm
Chén son lấp lánh rượu vàng
Tiễn người muôn dặm dạ càng đinh ninh
Một là mã đáo công thành
Nhân dân nhờ cậy, Triều đình đợi trông
Hai là sức kiệt đường cùng
Kiên trinh một chết anh hùng nghìn thu.
Lòng trung chàng báo ơn vua,
Mẹ già đạo hiếu đền bù mặc em!
Trong đời rụng cải rơi kim
Trong hồn Tổ quốc ta tìm gặp nhau.
Mây bạc một màu…
Hoàng Diệu (nắm tay vợ):
Nghe lời em khuyến khích bấy nhiêu câu,
Làm tôi quên cả mối sầu ly biệt.
Dẫu trăm tuổi ai là không một chết
Miễn lòng này trời đất biết cho ta!
Dì Hai (rót rượu mời Bà Cả) :
Làn tham:
Hoa xuân rụng trăng tàn thu khuyết,
Duyên trăm năm quyết tuyệt một ngày.
Thân tàn ngồi đứng nơi đây
Hồn tàn muôn dặm nước mây theo chồng
Đã lời hứa với non sông
Một đi tráng sĩ nào mong ngày về!
Bốn phương mây gió nặng nề
Tử sinh, xin nhớ lời thề tử sinh
Trăng bạc đầu xanh!
(Có tiếng trống hồi sang canh)
Hoàng Diệu: (uống cạn chén đứng dậy)
Thôi hết canh tư, tôi phải trẩy rồi
Phu nhân ở lại, chớ lấy tôi làm nghĩ,
Hãy thay tôi mà dạy con, thờ mẹ,
Còn tôi, từ đây chuyện gia đình dám nghĩ đến đâu!
Đã bao đêm, tôi thức suốt canh thâu
Khi nghĩ đến muôn thống khổ đương đổ xuống đầu
trăm họ!
(Chắp tay từ biệt: Hoàng phu nhân đáp lễ)
(còn tiếp)
Bình luận
Không có phản hồi (bài “Nhượng Tống – Tận trung báo quốc (Hồi 1 & hồi 2)”)