Nguyễn-Khoa Thái Anh – Nguyễn Huệ Chi và Vũ Huy Quang: Dị biệt và Tâm giao
31/10/2010 | 2:29 sáng | 21 Comments
Category: 9 năm talawas, Chính trị - Xã hội
Thẻ: Người Việt tại Mỹ > Nguyễn Huệ Chi
Thứ Hai, 25 tháng 10, 2010
Quốc lộ 1 lượn cong cong, trải dài một đường cung vòng theo triền đồi, một bên là núi một bên là biển trắng xóa với những làn sóng bạc đầu xô dạt vào bờ. Pacifica 1 mile: biển chỉ đường cho biết điểm hẹn sắp đến.
“Thưa thầy, nhìn cảnh thần tiên này thầy!”
Giáo sư Nguyễn Huệ Chi bừng mắt dậy: “Đẹp quá, đẹp quá! Chúng ta còn ở San Francisco không?”
“Dạ không, mình cách San Francisco khoảng 12 dặm về phía Nam.”
Với tốc độ cao, chiếc xe lao vun vút xuống dốc như có thể bay được trên khoảng không đáp xuống mặt biển. Khoảng 10 phút sau chúng tôi rẽ phải vào đường Crespi. Trời hôm nay trong xanh, chẳng bù với ba hôm trước mưa sa, mây mù, gió bão khắp vùng Bắc Cali. Gọi điện cho anh Vũ Huy Quang cho biết đã đến nơi, chúng tôi ra khỏi xe, lững thững bước nhìn phong cảnh hữu tình. Mùi mặn và tanh của nước biển tràn ngập hai buồng phổi mang lại sinh khí cho hai người.
“Thầy thấy có khoẻ không?”
“Khoẻ chứ, hôm qua chỉ ngủ được ba tiếng. Nắng ấm tốt quá.”
Ngồi trước cửa khu chung cư dành cho người hưu trí một chặp thì di động reo.
“Anh Quang gọi.”
“A, đây rồi, ngồi khuất thế này làm sao mà thấy được.” Anh Quang bước tới, ta thán.
Nguyễn Huệ Chi và Vũ Huy Quang tay bắt mặt mừng. Nom thấy mái tóc hoa râm và gương mặt suy tư rất ư là đạo mạo của anh Quang, tôi buột mồm: “Trông anh còn có vẻ già hơn ông Chi đấy nhé.”
“Mười năm rồi còn gì.” ông Chi nói. “Này, mình hàn huyên với nhau một chặp rồi cho tôi đi thăm cụ nhé?”
“Được, được.”
Chúng tôi dùng thang máy lên từng thứ tư, đi gần cuối một hành lang có cửa sổ cho thấy cảnh trong xanh của nước bể đằng xa.
“Có biển xanh là ta vẫn còn hy vọng”, tôi nói. Anh Quang mở cửa đưa chúng tôi vào căn hộ. Vừa bước vào bên trong là hơi thuốc lá đã xông vào mũi, nồng nặc. Căn hộ gồm hai gian, phòng khách và nhà bếp chia nhau một gian ngoài, với cửa kính ở cuối phòng đưa hướng nhìn xuyên qua mái ra đến vùng biển núi đằng xa. Bên trong là phòng ngủ và một buồng tắm. Đặc điểm của căn hộ là cửa kính nhìn ra núi và biển.
“Ông có biết chỗ này người ta gọi là gì không?” Anh Quang hỏi giáo sư Chi.
“Không.”
“Ngoạ hổ tàng long. Núi gặp biển thế kia, tôi ở đúng vào một nơi địa lý hiểm trở đấy!” Vũ Huy Quang vừa nói xong là cả hội cười. Gian ngoài gồm cái giường futon và một cái bàn nhỏ kê sát quầy, chia phòng khách và bếp, ở trên bàn có sách vở, mấy chai rượu và lọ gia vị. Đặc biệt là kệ sách mà hơn 90 phần trăm là sách về chủ thuyết và luận cứ cộng sản. Gặp anh một đôi lần, tôi cũng nghe tiếng Vũ Huy Quang là một Trotkyist thiên tả.
“Anh ở Mỹ mà theo cộng sản không sợ người ta gọi là phản động à?” Tôi đùa.
“Tôi chẳng theo ai. Ở Mỹ, Đảng Cộng sản vẫn được phép hoạt động chính thức cơ mà. Chính ra tôi là Trotskyist, tranh đấu suốt đời…” Anh còn lơ lửng thì ông Chi đỡ lời:
“Anh Quang thuộc phe Đệ Tứ thì đã bị phe Đệ Tam diệt cả rồi, tranh đấu gì được nữa!”
Chúng tôi lại cười ồ.
“Nói thật với anh nhé, bọn chống cộng ở đây chả biết cóc gì về cộng sản, ngay cả đám cộng sản trong nước họ cũng chẳng hiểu gì về cộng sản, có ai chịu đọc sách, học hỏi tư tưởng Bác Hồ, tư tưởng Marxisist-Leninist bao giờ đâu!”
“Anh nói thế về ông Hồ thì tôi không đồng ý, người ta ai cũng biết tư tưởng của cụ là thế nào chứ.”
Tôi lại chêm vào: “Anh Quang à, lý thuyết cộng sản của anh thì chỉ có trong sách vở.”
“Ở đây có người Việt ở không?” Giáo sư Chi hỏi.
“Tôi là người Việt duy nhất ở đây. Xin lỗi, mấy tên Bolsaviks (Bolsa được xem là thủ phủ chống cộng máu nhất ở Cali) thì có thớ gì mà vào được đây, có thành thạo tiếng Anh đâu, có nói chuyện, am hiểu được người Mỹ đâu mà sống trong vùng này. Họ chỉ sống trong vũng lầy của họ thôi.”
Lan man một hồi với nhiều giai thoại về những người đồng lứa, những người bạn xưa cũ, những người mà nay Vũ Huy Quang cho rằng sự thành công của họ được đo bằng tiền của, nhưng không vượt lên trên ý thức gì xa xôi hơn, theo anh:
“Khi nói chuyện với mình họ chỉ nhìn – nói xin lỗi – từ fermeture quần trở xuống chân và giầy dép. Đ.M., nói chuyện với họ chỉ năm mười phút là tôi chán chẳng còn chuyện gì để nói. Cái đầu họ chẳng có tí gì.”
Nói chuyện người khác rồi lại nói đến chuyện mình, Vũ Huy Quang như gặp đúng người trút bầu tâm sự. Khi Giáo sư Chi hỏi thăm về người bạn năm xưa, khơi mào chuyện than trách về cuộc tình cũ của anh, một người mà anh cho là hiền lành và dại dột không biết lượng thời thế. Muốn giúp cho Vũ Huy Quang bớt đắng cay vì “Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều”, Giáo sư Nguyễn Huệ Chi bèn phê một câu:
“Chị ấy chịu đựng được anh bao nhiêu năm nay thì đúng là chị ấy khôn rồi!”
“Chú nói thế không đúng, vì chịu đựng anh ấy được bao nhiêu năm nay nên ta phải nói là chị ấy dại nhất trần đời!” Lời nói thẳng thừng không đắn đo suy nghĩ của tôi làm ông Chi cười ha hả và anh Quang cũng đỏ mặt cười theo không phản đối gì. Anh Quang cũng là người độ lượng, không chấp nhất những lời châm chọc của tôi. Trái lại, anh cho tôi biết trong đời anh sợ và mến nể nhất là những người trẻ, những người ít tuổi nhưng nhiều hiểu biết và nhiều khi chính anh có lỗi với họ nhưng họ vẫn không giận, vẫn tử tế, giúp đỡ anh. “Thí dụ như cô Cầm nhé, nó chịu đựng tôi đủ điều, nạt nộ la hét vô lối, nhưng chẳng bao giờ cô ấy để ý hay giận tôi. Cả đời tôi biết ơn và nể trọng những người như thế.”
Vũ Huy Quang cho thấy lý do anh sống xa cách nơi phồn hoa đô hội chẳng phải là do cây thông của Nguyễn Công Trứ: “Kiếp sau xin chớ làm người/Làm cây thông đứng giữa trời mà reo!” mà cũng chẳng phải vì anh là nhà thơ nhiều mơ mộng: “Buồn trông cửa bể chiều hôm/Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?” như Kiều của Nguyễn Du, hay một người mẫn cảm như trong ca dao: “Chiều chiều ra đứng ngõ sau/Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.”
Anh kể lại chuyện tình với một người anh gọi là cô du kích, tình cờ một hôm chở cô đi chơi lạc vào vùng Pacifica, đường núi ngoằn ngoèo, sương mù lại kéo xuống không biết đường về, phải tá túc lại một đêm ở motel. Sáng hôm sau, đi ngang đến chỗ này, anh thấy biển và núi nên thơ hữu tình, thích quá nhưng sợ ngoài tầm tay với của mình anh định không vào, nhưng được cô du kích phán cho một câu chí lý: “Anh cứ vào hỏi đi, không được thì thôi, có ai giết mình đâu mà sợ.”
Và như người Mỹ thường nói: “Phần còn lại là chuyện đã rồi.” (And the rest is history.) Sau đó chúng tôi lên xe đi thăm bà cụ thân sinh anh Quang mà Giáo sư Nguyến Huệ Chi đã gặp khoảng mười năm trước. Trên chiếc xe Volvo đời cũ của anh, tôi vớ được một quyển sách:
“Trong tất cả các sách của anh, em chỉ thích nhất là quyển này!”
“Quyển gì đó?”
“Elmore Leonard’s Ten Rules of Writing. Mười điều răn về viết văn của ông Elmore Leonard.”
“Anh tặng Thái Anh đó!”
“Cám ơn anh nhiều nhé.”
Sau khi đi ăn, đi ngao du vùng biển chúng tôi về nhà anh, kết thúc buổi gặp gỡ bằng một vài bí quyết làm bếp. Quân tử há phải xa lọ bếp núc?
Thứ Bảy, 16 tháng 10, 2010
Ở đời có nhiều cơ duyên tình cờ run rủi cho mình được gặp những hiền tài, những người mến mộ từ lâu – những người đã gợi lên trong ta chuyện “quốc hồn, quốc túy”. Đến nửa tuổi đời, tôi như một thằng bé đi tìm cái hay trong ý nghĩa cuộc sống của thân phận người. Chẳng may đó là thân phận, số kiếp của dòng giống Lạc Việt, trải qua hàng nghìn năm hiện hữu mà có khi nào trong suốt chiều dài lịch sử đó, đã có ai phải tự hỏi trong thời điểm họ đang sống: “Có phải đất nước ta đang đứng trước một hiểm họa tương lai vô tiền khoáng hậu không?” Ít ra chân lý tầm sư học đạo của một người xa quê hương như tôi còn tìm được những bậc tri kỷ để chia sẻ chuyện tâm giao, an ủi được những lúc mình cố quên đi số phận Việt của mình.”
Hơn tuần nay bàng hoàng vì quyết định đóng cửa của talawas, tôi suy nghĩ nhiều về mấy câu phỏng vấn của Phạm Thị Hoài. Đối với tôi, điều hệ trọng nhất là sự hiện diện của khúc ruột ngàn dặm, khoảng ba triệu người Việt hải ngoại, họ chính là tiềm năng lớn của đất nước. Làm thế nào để nhà nước thực sự cải tổ, để những người con xa nhà vẫn có thể đóng góp cho quê hương. Không hiểu ý tưởng này quá xa rời thực tế không: Nếu chẳng may nước Việt Nam trở thành một quận huyện của Trung Quốc thì những con dân hải ngoại giống như những người Do Thái một ngày kia sẽ trở về khôi phục lại giang sơn? Hay là lúc đó người Việt đã bị đồng hóa cả hai chiều, trong nước họ sẽ trở thành một sắc tộc của người Hoa, ở hải ngoại họ sẽ trở nên những người Âu Mỹ gốc châu Á?
Hôm tiễn biệt giáo sư Nguyễn Huệ Chi ở phi trường, nhìn quyển hộ chiếu màu nâu tím của Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, tôi bèn hỏi ông: “Chú có biết cháu có một lợi điểm hơn chú ở chỗ nào không?”
“Không biết, cháu nói cho chú nghe.”
“Dù gì đi nữa thì cháu cũng còn quốc tịch Mỹ, còn hơn phải mang quốc tịch Tàu. Cái lợi điểm của người Việt hải ngoại cũng chính là cái khó của họ, lúc nào họ cũng còn Hoa Kỳ để nương tựa, cho nên ít khi nào họ tranh đấu đến cùng cho sự sống còn của Việt Nam. Còn trường hợp những người trong nước thì khác, chú có đồng ý không?” Ông chỉ gượng cười nhưng không nói.
Khoảng tuần lễ nay tôi có nhiệm vụ làm tài xế cho giáo sư Nguyễn Huệ Chi. Năm nay ông ngoài 70, nhưng người còn tráng kiện, rắn rỏi, dáng người nhỏ, da ngăm ngăm. Tôi cảm thấy mình có diễm phúc được biết đến một con người khả kính và bình dị như ông, thâm sử Việt lại sành Hán văn. Có hôm tôi ngồi say mê nghe ông nói chuyện với những bậc đàn anh về Lý-Trần, về Cao Bá Quát, về công việc lùng kiếm những bia cổ, chuyện đốt sách của Minh Thành Tổ. Kể cả khi ông được đi nghiên cứu ở Trung Quốc, nói chuyện khí tiết với một học giả và cán bộ phiên dịch Trung Hoa làm anh ta xấu hổ vì bị ông vạch mặt ý đồ của tổ tiên họ, chuyện họ muốn diệt văn hóa Việt cũng như đồng hóa Việt Nam. Một hôm đưa ông đến nhà một anh bạn sưu tầm đồ gốm cổ Việt Nam, ông đã bỏ gần ba tiếng đồng hồ để ngắm nghía, đọc và chú giải những hàng chữ Nôm, chữ Hán trên những đồ cổ bằng sành, sứ.
“Chú ơi vào đây xem, sách vở của anh Peter như thế này thì khiếp quá.” ông Chi bước theo tôi vào phòng sách của giáo sư sử Peter Zinoman (thuộc Đại học Berkeley). Cả một gian phòng mà ba bức tường đều kê bằng những kệ sách, vừa Việt vừa Anh, lại có một số sách bằng Pháp văn. “Thế này thì chưa thấm vào đâu, Thái Anh phải đến xem sách của chú ở Hà Nội.” Anh Peter cũng bước vào, nói tiếng Việt với giọng Hà Nội: “Chú nhiều sách thế à, cháu còn sách ở phòng này nữa.” Anh Peter vừa nói vừa đưa chúng tôi sang một phòng khác. Cô Cầm cũng đi theo. “Đây đúng ra là phòng làm việc của Cầm”, Peter nói. Lại hai bức tường kê rất nhiều sách. Giáo sư Chi không bỏ lỡ cơ hội, rà soát những quyển sách cổ và quý của Việt Nam, kể cả Pháp. Từ Kiều đến Phạm Quỳnh, đến các tác giả thời Tự lực Văn đoàn, đến những quyển sử ký quý của Việt Nam. Nhiều sách ông chưa cầm đến đã biết do ai soạn, xuất bản năm nào, sai sót điều gì. Ngay cả khổ sách ông cũng biết. “Sách này hẳn đã in lại, sách chính nguyên bản làm gì có khổ lớn như thế này!”
“Sao, cháu có quen chị T. à, chị ấy dạo này ra sao, còn đẹp và hiền thục như khi xưa không?” hoặc, ” Còn cô T.V. nữa, cấm cố tu thân thật à?”, ông hỏi han tất không sót một người nào. “Còn mẹ anh Quang, ngày xưa đã từng chăm sóc chú tử tế lắm, bà chính là người báo tin cho chú cuộc tấn công Tháp Đôi ở New York ngày 9/11… Ta phải gọi điện, hẹn ngày đến thăm họ ngay.” Ông không để tôi quên một người nào.
Ông cũng dí dỏm không kém, một hôm đưa ông vào khuôn viên Đại học Berkeley, đi qua Sproul Hall nơi tụ họp đình đám của các nhóm sinh viên phản chiến vào thập niên 60, tôi hỏi ông có muốn theo tinh thần Free Speech của Berkeley đứng giữa các bậc tam cấp lấy loa rao giảng không? “Thôi mình Free Speech với Kiến nghị ở trang Bauxite Việt Nam như thế đủ rồi!” Tôi bật cười: “Lấy kiến nghị của Mỹ nữa chứ!” Ông trả lời: “Mấy nghìn chữ ký, lại có lão thành cách mạng nặng ký ở Việt Nam như bà Nguyễn Thị Bình ký thì Mỹ nào sánh bằng?”
Lúc vào tiệm sách cộng sản trong Durant Square ở Berkeley, tôi giới thiệu ông với cô hàng sách người Mỹ trắng, bảo rằng: “Ông này là giáo sư ở xứ Việt Nam cộng sản sang thăm các đồng chí đây!”
“Ấy chết, ai lại nói thế?!” Ông cười nhẹ nhàng phản đối. Ai ngờ bắt đúng tần số, cô Mỹ trắng lại biện minh cho nhà nước thân yêu: “Việt Nam không thể nào gọi là một nước cộng sản được, anh nói thế không đúng, v.v.và v.v.”
Khi đi qua các hội sinh viên bày biện bàn ghế, băng-đơ-rôn quảng cáo những việc làm của họ, ông cũng rất vui. Gặp các em trong hội sinh viên Việt Nam, ông mừng rỡ khi nghe những em còn nói được tiếng Việt, ông khuyến khích và cổ động các em gìn giữ ngôn ngữ, văn hóa, hỏi thăm thân thế của các em rất chân tình.
Tất cả những điều thâm thúy về văn học sử này đương nhiên được hun đúc bằng những năm nghiên cứu, học hỏi dài lâu, nhưng có lẽ điều đáng quý của con người của ông là được bổ túc bằng những đức tính nhân nghĩa, cách đối xử bình dị, thân thương và rất trọng tình nghĩa của phong tục Việt Nam. Ông nhớ mãi những tiểu tiết của mười năm trước, những cử chỉ, những hành vi tốt lành, một lời nói chí tình, một ánh mắt, một nụ cười đôn hậu. Trong một hoàn cảnh đất nước, cái thiện cái ác lẫn lộn, khi nhân nghĩa, đạo đức có vẻ như bị suy đồi thì văn hóa, tình người thuần Việt của cha ông ta có lẽ còn tồn đọng ở những người như ông, chưa mất.
© 2010 Nguyễn-Khoa Thái Anh
© 2010 talawas
Bình luận
21 Comments (bài “Nguyễn-Khoa Thái Anh – Nguyễn Huệ Chi và Vũ Huy Quang: Dị biệt và Tâm giao”)
1 2 Trang sau »
Tôi xin được có vài lời thưa lại với ông Nguyễn Khoa Thái Anh cho rõ ngữ nghĩa.
Trí thức thiên tả là chữ của ông dùng trong bài, khi đọc bài viết nếu có ý kiến thì còn lâu tôi mới gán cho ông và mấy người quen biết ông (trên đầu bài có chữ tâm giao) cái nhãn “thiên tả”, vì mắc cười và cho rằng đó là giọng điệu quen thuộc mà bọn Pháp chúng tôi xếp vào loại pédant (pedantic tiếng Anh) cho nên tôi đã dùng chữ “trí thức tá lả” là chữ tôi học được sau này từ bọn tuổi trẻ bên nhà sang bên này du học với cái nghĩa là tào lao/dân cà chớn (comme les cons), mà theo tôi văn phong ông Nguyễn Hữu Liêm cũng cùng màu sắc như pháo bông. Nếu có thêm ý thì tôi thiên về ý kiến mới đây của ông Hòa Nguyễn hơn.
Nguyễn Hữu Liêm dùng ông Nguyễn Huệ Chi để tô son điểm phấn cho mình (sau nhiều lần bị tơi bời hoa lá).
Nguyễn Khoa Thái-Anh mượn cớ ông Nguyễn Huệ Chi để trả đũa, hay gỡ bài cào (sau nhiều lần bị thua me, như câu nói “thua me thì gỡ bài cào”) đối với người Việt chống Cộng.
Tội cho thân ông Nguyễn Huệ Chi. (Nhưng NẾU lần này ông Huệ Chi sang Mỹ vì được các ông Liêm, Thái-Anh mời/bảo lãnh, thì ông Huệ Chi ráng chịu vậy.)
Tôi đã ký tên cả hai lần vào các bảng kiến nghị do GS Huệ Chi chủ trương. Đối với tôi GS HC và đồng sự là những người vô cùng can đảm.
Tuy nhiên đọc bài này của ông NKTA tôi cảm thấy có chút gì đó phiền muộn. Tôi đồng ý với ông Lê Quốc Trinh về cảm nhận dành cho những ngôn từ quá ư “cải cách ruộng đất” mà ông VHQ dùng chỉ đồng bào mình ở LA. Việc này làm tôi nhớ cái không gian từ ngữ tại miền Nam sau 75. Tôi thật không hiểu nổi, một người tự xưng là trí thức (dù có là đệ tứ đi nữa)sao lại thế…
Ông Lê Điều nói rất đúng về cái kênh liên lạc giữa trí thức trong nước và hải ngoại. Tôi đã chứng kiến sự vận hành của cái kênh ấy tại Montreal mười mấy năm trước với nhóm báo Đất Việt (không biết tôi nhớ có đúng tên không). Nhóm này có liên quan sâu xa với các sinh viên phản chiến thời xưa (Nguyễn Thái Bình, Nguyễn Hưu Anh…) nhiều người bị bầm dập vì chính những cái cause mà họ tưởng đâu là.
Tựu chung lại, như 1 thành viên khác, tôi chỉ biết thốt lên là đáng tiếc.
Trí thức thiên tả ???
Chỉ còn hai hôm nữa thôi là chúng ta không còn cơ hội “bàn loạn” trên diễn đàn Talawas tự do dân chủ này. Tôi cũng đành vớt vát vài ba “trống canh” để chia sẻ cùng ông Nguyễn Khoa Thái Anh.
Tôi sực nhớ đến câu trả lời của nhà toán học nổi danh Ngô Bảo Châu: “Trí thức không phải là đàn cừu để bị ép đi lề phải hay lề trái”. Mang danh trí thức có học vấn kiến thức cao trong xã hội, biết suy tư, lý luận chững chạc thì dĩ nhiên tư duy phải luôn luôn tự do phóng khoáng. Một khi chấp nhận theo đuổi một đường lối suy nghĩ đặc thù nào đó (Trotkyist chẳng hạn) là hiển nhiên trí thức bị gò bó vào một khuôn khổ, giáo điều cứng ngắc, mất hẳn tính sáng tạo. Vậy thì “thiên tả hay thiên hữu” tự nó đã bôi bẩn danh nghĩa trí thức rồi.
Ở đây tôi không hề phê phán hay so sánh chính kiến theo Cộng hay chống Cộng, vì tôi tôn trọng tự do tư tưởng, tự do ngôn luận. Dĩ nhiên trong xã hội tự do dân chủ, mỗi người có quyền theo đuổi chính kiến khác biệt, nhưng quyền lợi đi đôi với trách nhiệm và giới hạn sử dụng (theo luật pháp) để không lấn sân sang nhà người khác. Nghe ông Vũ Huy Quang tự xưng là phần tử Cộng Sản Trotkyst, tôi không ngạc nhiên chút nào, nhưng nghe ông thoá mạ phỉ báng những người Việt hải ngoại chống Cộng (ở Bolsa) bằng những giọng điệu khá cay độc, đầy khinh bỉ, thì tôi cảm thấy ông này không còn là trí thức nữa rồi. May cho ông Quang là ông đang sinh sống ở đất nước tự do dân chủ hàng đầu thế giới, cho nên ông được toàn quyền ăn nói, đọc sách, theo đuổi chủ nghĩa CS. Giả thử ông mò về VN chơi vài tháng, với giọng điệu khinh người như thế thì bảo đảm ông không có chỗ để dung thân, tuy VN là một nước còn bám đuôi XHCN. Cho rằng ông được thăm viếng Nga Sô vài tuần để truyền bá tư tưởng Trotkyist của ông, chưa chắc đã có vài người chịu nghe, có lẽ họ còn cười thầm trong bụng là khác.
Thế giới ngày nay tiến bộ vượt bực, qua Internet tư tưởng nhân loại phát triển nhanh chóng từng giờ từng phút, thì kẻ nào cứ bấu víu mãi “những tư tưởng lỗi thời” thì chắc chắn sẽ tự cô lập hoặc bị xã hội cho ra rìa, thế thôi.
Nào ai xỉn nào ai say
Hũ ta ta biết, bình ta ta hay
Nam nhi nhậu nhẹt ư hồ thỉ
Hà tất bọt ngầu đối sủi cay?
(“Hồ Đồ” – Nguyễn Trác… Táng)
Lời phản biện của một người không phải là trí thức thiên tả
Không hiểu tôi có xứng đáng với danh hiệu “trí thức thiên tả” mà bạn đọc (vantruong) đã gán cho, chung với Nguyễn Hữu Liêm, Vũ Huy Quang? Nhưng nếu những tên gọi – dù có ý miệt thị hay lăng mạ – không thay đổi được lập trường và hướng đi của tôi hoặc giả khiến cho những người không biết đến, không hiểu mình là ai nghi kỵ, chê bai, dèm pha thì âu đó cũng là một thực tế, một cái giá phải trả trong không gian ảo của những mạng lưới điện tử.
Trong một thế giới đảo điên nhiều màu sắc có người chỉ biết phận biệt trắng đen là hai màu hiện hữu, thì có đúng những gam màu Việt Nam trong nước và hải ngoại đã được soi rọi qua lăng kính quang phổ của những người tự phong cho mình chuẩn mực, chính nghĩa? Rốt cục họ cũng chẳng điểm tô được một sắc màu sáng sủa nào ngoài một bảng màu/palette ảm đảm cũ kỹ do thiên kiến cũ của cuộc chiến Quốc-Cộng 35 năm xưa? Thay vì tìm đến một mẫu số chung, một lối thoát hiện thời cho mọi người Việt cùng chia sẻ lý tưởng quốc gia dân tộc, những người thích phê phán chụp mũ lại chia ranh giới, loại bỏ chính mình vì chính những tư duy xơ cứng giới hạn họ với những người trong nước – cũng tại cái nhìn hẹp hòi của mình?
Có phải con người sinh ra đã có những khác biệt, huống hồ sau bao năm sống trong một xã hội “dưới bảng chỉ đường của trí tuệ” cũng như những cuộc chạy đua theo kinh tế thị trường (theo định hướng xã hội chủ nghĩa) sau đó đã tạo ra nhiều khắc khoải dị biệt, chưa kể “những người lâu nay vẫn đi bên cạnh cuộc đời” (không phải do ái ân lạt lẽo của…) mà người hải ngoại không thể nào thấu hiểu được đối tượng trong nước của họ nếu họ không đặt mình vào hoàn cảnh của những người này. Cho dù do cái nhìn thiển cận hoặc do bất kỳ một động cơ nào đó – những người thích phê phán có lẽ đã quên đi rằng họ không phải là người phán xét cuối cùng.
Những người hiểu biết (họ có cần phải là trí thức không?) khi muốn giữ vững lập trường cũng nên nói lên sự thật của mình một cách ôn tồn và minh bạch, không cần phải vội vã bác bỏ lập trường người khác, nhất là khi mình chưa thể xác quyết đâu là thực-hư, xô đẩy người ta vào thế thù địch. Huống hồ trong một diễn đàn đại chúng, khi mọi khía cạnh chưa chắc đã được đưa ra bàn luận rốt ráo, làm sao có thế chủ quan gán cho người khác cái mác thiên tả? Bạn đứng trên quan điểm nào để phê bình phán xét thế nào là lề phải thế nào là lề trái, nếu không tự cho mình là người định đoạt chuyện đúng sai? Có phải khi phản đối chuyện chuyên chế áp bức, vô hình chung người ta đã chống lại chuyện định đoạt, quyết đoán? Ai có thể lấy tư cách để cho rằng mình quang minh chính đại, giữ mực thước, khuôn phép? Có phải khi kêu gọi dân chủ thì người ta đã chấp nhận căn bản đa nguyên mà không phải dân chủ đa nguyên lúc nào cũng được đặt trong tầm hiểu biết riêng tư của cá nhân hoặc do mình định nghĩa hay sắp xếp cái sân chơi đa nguyên đó.
Để cuối cùng tôi không phải tránh né sự công minh phán xét của những người có danh chánh ngôn thuận, những người thuộc đa số thầm lặng không cần tìm sự biểu quyết hay xác định đồng thuận của diễn đàn, cho tôi gióng lên những lời ca ai oán của Nguyễn Bá Trác trong bài “Hồ Cầm” mà thanh minh rằng:
“Nào ai tỉnh nào ai say
Chí ta ta biết, tình ta ta hay
Nam nhi sự nghiệp ư hồ thỉ
Hà tất thành sầu đối cỏ cây?”
Có người ở đây đã ví ông Nguyện Huệ Chi như bức tranh đẹp, và ông Nguyễn Hữu Liêm muốn dùng sơn cọ bôi lên mong tô điểm cho tranh đẹp hơn (và để mình được tiếng là đồng tác giả). Nhưng tiếc là ông Liêm không phải họa sĩ có tài.
Còn Nguyễn Khoa Tháí Anh lợi dụng chuyện tiếp đưa ông Chi đi đây đó để nói về mình, và nhất là về một nhân vật đệ tứ quốc tế lỡ vận, và bây giờ có vẻ gàn. Thái Anh nói về ông Quang ở Mỹ này nhiều hơn nói về người khách từ phương xa tới. Ít ra có câu hỏi tự nhiên từ nhiều người: ông Chi tới Mỹ lần này để làm gì, nhưng không được nghe chủ khách nhắc tới lý do. Có vẻ mục đích của Thái Anh là lợi dụng ông Quang để “chửi” những người chống Cộng sống ở vùng Little SaiGon từ lâu anh vẫn ấm ức: “ mấy tên Bolsaviks (Bolsa được xem là thủ phủ chống cộng máu nhất ở Cali) thì có thớ gì mà vào được đây, có thành thạo tiếng Anh đâu, có nói chuyện, am hiểu được người Mỹ đâu mà sống trong vùng này. Họ chỉ sống trong vũng lầy của họ thôi.”.
Tôi nghe nói tại mấy khu phố nhỏ ở Bolsa, có số bác sĩ tập trung vào hàng đông nhất ở nước Mỹ, và ít ra lần này đã có người Việt lên tranh luận tay đội trên TV Mỹ với một dân biểu làm việc cho quốc hội Mỹ đã 14 năm.
Cái trò mượn đao giết người này chỉ là tiểu xảo, không đáng bàn nhiều. Nhưng Thái Anh đã vô tình hay hữu ý đặt ông Huệ Chi về phía những kẻ chém người, tạo cho ông cái vẻ như im lặng thưởng thức tài múa đao của họ. E rằng ông Huệ Chi lần này qua Mỹ và được nhắc tới trên hai bài bài viết đó có thể so sánh với trường hợp của nàng Kiều: thoát được họ Mã thì cũng vào tay họ Sở lợi dụng.
Tôi viết trên theo ý câu thơ của Vương Ngư Dương đời Thanh (hôm qua đã trích nhưng sai một chữ):
Cô vọng ngôn chi, cô thính chi
(Nói vọng mà chơi, nghe vọng chơi.)
Đọc thấy cái này: Đặc biệt là kệ sách mà hơn 90 phần trăm là sách về chủ thuyết và luận cứ cộng sản. Gặp anh một đôi lần, tôi cũng nghe tiếng Vũ Huy Quang là một Trotkyist thiên tả. tôi không khỏi nổ cười Ha Ha Ha.
Thôi nhé! Xin được tặng mấy vị “trí thức tá lả” như NKTA, VHQ, NHL bài hát này:
http://www.youtube.com/watch?v=gznDOMKeWkA
…………………………………………
“Tôi là người Việt duy nhất ở đây. Xin lỗi, mấy tên Bolsaviks (Bolsa được xem là thủ phủ chống cộng máu nhất ở Cali) thì có thớ gì mà vào được đây, có thành thạo tiếng Anh đâu, có nói chuyện, am hiểu được người Mỹ đâu mà sống trong vùng này. Họ chỉ sống trong vũng lầy của họ thôi.”
Lan man một hồi với nhiều giai thoại về những người đồng lứa, những người bạn xưa cũ, những người mà nay Vũ Huy Quang cho rằng sự thành công của họ được đo bằng tiền của, nhưng không vượt lên trên ý thức gì xa xôi hơn, theo anh:
“Khi nói chuyện với mình họ chỉ nhìn – nói xin lỗi – từ fermeture quần trở xuống chân và giầy dép. Đ.M., nói chuyện với họ chỉ năm mười phút là tôi chán chẳng còn chuyện gì để nói. Cái đầu họ chẳng có tí gì.”
…………………………………………
Có lẽ phải dùng ngụy biện để trả lời cái ngụy biện này:
Có khác nhau giữa khinh thường tiền bạc của bậc triệu phú và của tên ăn mày. Có khác nhau giữa khinh thường tri thức của bậc đại trí và của kẻ ngu đần.
Có một lần đến Santa Anna, ông Nguyễn Huệ Chi có đến thăm nhà văn Võ Phiến, ông Võ có lần thuật lại với tôi chuyến viếng thăm này mà ông coi là rất quý hóa. Năm nay, trở lại Mỹ trong cái tư thế của một nhân vật “thiên hạ thuỳ nhân bất thức quân” ông được những “người bạn” viết lách như thế này để chào mừng ông, tôi cũng chỉ xin đi đến một kết luận ngắn gọn như ông PNH đã phát biểu ở trên là “Đáng tiếc !”
Thân gửi ông Phan Nhiên Hạo:
Việc các trí thức trong nước ít nhiều bất đồng chính kiến, hoặc có những phản biện ít nhiều “ngoài lề”, khi ra nước ngoài, đặc biệt là qua Mỹ, lại thường chỉ tìm đến giới trí thức Việt kiều thân tả, chứ hầu như không tiếp xúc với những người Việt hải ngoại khác, là hiện tượng điển hình của quan hệ “giao lưu” trong nước – ngoài nước. Tôi e rằng GS Nguyễn Huệ Chi cũng vô tình nằm trong cái “hoàn cảnh” này.
Giả sử ông tiếp xúc với những người nổi tiếng chống cộng ở Mỹ chẳng hạn thì khi về Việt Nam, rất có thể ông sẽ bị quy cho tội tiếp tay cho các thế lực lưu vong phản động ở hải ngoại.
Như vậy có nghĩa là người Việt trong ngoài nước, dù cùng một chí hướng chăng nữa thì vẫn bị những lằn ranh, những giới tuyến đã vạch sẵn, làm cho bị “phân hóa” (để dùng chữ của ông Chủ tịch Nguyễn Minh Triết).
Liệu Giáo sư Chi có vượt qua được những ranh giới đó không? Ngoài ra nhiều người cũng tự hỏi, trong khi việc Kiến nghị dừng khai thác bauxite ở trong nước đang có những biến chuyển khác lạ, có thể tích cực mà cũng có thể tiêu cực, còn chưa rõ ràng, thì tại sao người phụ trách trang BVN lại đi… du lịch nước ngoài? Sứ mệnh chuyến đi này của GS Chi là gì? GS muốn tranh thủ, kêu gọi sự giúp đỡ rộng khắp của mọi tầng lớp Việt kiều hải ngoại hay chỉ cần sự ủng hộ của ông Nguyễn Hữu Liêm, người nổi tiếng với tiếng còi hụ của cảnh sát Việt Nam mở đường đón rước Việt kiều “yêu nước”? GS Chi có hiểu tình thế nhạy cảm đó không?
Nhiều câu hỏi, không có câu trả lời!
Gởi bác Lê Quốc Trinh,
Ông Nguyễn Khoa Thái Anh viết lại lời nói của ông Vũ Huy Quang chứ không phải lời nói riêng của NKTA. Tuy nhiên khi công bố lên đây những lời nói được nhiều người đọc của ông VHQ tất người viết phải có sự đồng ý của người nói. Vậy tôi tự hỏi ông VHQ là ai, tài sức đến đâu mà ăn nói như thế: trong XH con người phải có kẻ cao người thấp, giàu nghèo sang hèn, khôn dại khác nhau tùy theo điều kiện bên trong, hoàn cảnh bên ngoài tạo nên chứ đâu phải ai cũng tài ba hệt như ông và NKTA thì lấy đâu mà các ông “nổ”, thì XH loài người sẽ thành tổ mối mất rồi…Thí dụ về hoàn cảnh: một đứa trẻ thông minh giỏi giang mà lầm lỡ ra đời làm con của “ngụy” thì sau 75 chỉ có nước đi bán vé số.
Tôi nghĩ có lẽ đó là một trong rất nhiều lí do để người Việt ở Bolsa có thái độ quyết liệt với CS.
GS Nguyễn Huệ Chi, với các hoạt động chống khai thác bauxite, đã gây đuợc cảm tình với đông đảo người Việt hải ngoại. Chuyến đi Mỹ này của ông lẽ ra đã có thể là một cơ hội để gặp gỡ nhiều người khác nhau trong cộng đồng, tạo sự thông cảm giữa trí thức trong và ngoài nước. Rất tiếc ông đã đuợc/bị đón tiếp, tâng bốc bởi những những nhân vật mà phần lớn nguời Việt hải ngoại rất dị ứng khi nghe tên. Việc này đã chặn đuờng tiếp xúc của GS Nguyễn Huệ Chi với cộng đồng hải ngoại, không giúp giải toả đuợc thành kiến từ cả hai phía: rằng ông vẫn là người “bên kia”, còn cộng động hải ngoại chỉ toàn những kẻ “chống cộng cực đoan”. Đáng tiếc.
Xin chia sẻ những tâm tư của ông Lê Quốc Trinh. Nhưng tôi nghĩ đằng sau (nói đúng ra là trước khi) chuyến đi Mỹ của Gs NHC có điều “ám muội” gì đó thực là không tốt cho “cái tốt” đang còn là của hiếm và được nhiều người trông đợi. Điều “ám muội” đó đúng hay sai đến bây giờ thật là khó chắc. Nhưng công chúng quan tâm đến việc nước, lòng thật chẳng yên.
Hãy đọc những dòng chữ do chính ông Nguyễn Khoa Thái Anh viết:
…………………………………………
“Tôi là người Việt duy nhất ở đây. Xin lỗi, mấy tên Bolsaviks (Bolsa được xem là thủ phủ chống cộng máu nhất ở Cali) thì có thớ gì mà vào được đây, có thành thạo tiếng Anh đâu, có nói chuyện, am hiểu được người Mỹ đâu mà sống trong vùng này. Họ chỉ sống trong vũng lầy của họ thôi.”
Lan man một hồi với nhiều giai thoại về những người đồng lứa, những người bạn xưa cũ, những người mà nay Vũ Huy Quang cho rằng sự thành công của họ được đo bằng tiền của, nhưng không vượt lên trên ý thức gì xa xôi hơn, theo anh:
“Khi nói chuyện với mình họ chỉ nhìn – nói xin lỗi – từ fermeture quần trở xuống chân và giầy dép. Đ.M., nói chuyện với họ chỉ năm mười phút là tôi chán chẳng còn chuyện gì để nói. Cái đầu họ chẳng có tí gì.”
…………………………………………
Dễ sợ thật nhỉ! Nghe mà rùng mình! Lâu lắm mới được nghe những lời phê phán vô cùng cay sâu độc địa của vài người Việt hải ngoại nhận xét về nhau, tưởng chừng như chúng ta còn sống trở lại thời kỳ Cải Cách Ruộng Đất (1954-1956) hay Học Tập Cải Tạo (1975-1985).
Thế mới hay những gì mà Nhà Nước kêu gọi Hoà Hợp Hoà Giải Dân Tộc chỉ là trò tuyên truyền lừa phỉnh, đầu môi chót lưỡi!
Giáo Sư Nguyễn Huệ Chi nghĩ sao nhỉ? Tại sao đang ở Việt Nam đấu tranh phản biện cho Bauxite Tây Nguyên thì ông lại bay sang Hoa Kỳ để rồi bị dây dưa vào những chuyện thị phi như thế này?
Chán thật!