Nghe bài hát đầu “Xuân”
28/04/2009 | 4:16 chiều | 4 Comments
Category: Văn học - Nghệ thuật
Lời giới thiệu: Với sự kiện diễn ra đúng ngày 30.4.1975, tôi là kẻ hoàn toàn xa lạ, vì 3 năm sau tôi mới được sinh ra; nhưng với Như Huy, dường như đã có một vết tích ấu thời, khi anh chào đời năm 1971 tại Hà Nội. Một người 4 tuổi, một người (âm) – 3 tuổi, làm sao kham được một sự kiện, mà ngày nay nhìn lại, có quá nhiều đớn đau và hiểu lầm. Vì ngộ nhận, hiểu lầm mà đớn đau; vì đớn đau mà hiểu lầm và ngộ nhận. Để kỷ niệm cái ngày (mà thiện hạ phải còn luận bàn nhiều), tôi post lại 1 bài viết của Như Huy trước đây, như là một câu hỏi của anh về “lòng người” dân nước Việt trong cái ngày này. [Lý Đợi]
Như Huy
Nghe bài hát đầu “Xuân”
Văn Cao
(15.11.1923 – 10.7.1995)
Có 2 bài hát của Văn Cao mà tôi rất thích, 1 là Tình ca trung du, và 2 là Mùa Xuân đầu tiên. Cả 2 bài hát, theo tôi biết, đều là những sáng tác ở giai đoạn sau của Văn Cao, giai đoạn “Hậu” Nhân văn – Giai phẩm. Song nếu với bài Tình ca trung du, sự quyến rũ nằm ở các nét phát triển rất bất ngờ của giai điệu, của các đoạn chuyển điệu (khá) phức tạp cùng ca từ vô cùng trong sáng và đầy thi ca: “Miền quê núi thắm, ở cuối sông một cánh tay sông Hồng, một cánh tay sông Lô, hai cánh tay như ôm trung du…” thì ở bài Mùa Xuân đầu tiên, sự quyến rũ lại nằm ở cấu trúc và không gian âm nhạc vô cùng giản dị, trong sáng, nhưng cũng thật xót xa. Không hiểu sao, bản thân tôi luôn có 1 sự liên tưởng bài hát này với bản Sonata số 5, cung fa trưởng, có tên Mùa Xuân, viết cho cho violon và piano của Beethoven. Cũng một cảm giác mong manh như thế, một giai điệu/chủ đề mảnh dẻ (lẽ dĩ nhiên, với Beethoven, do khác biệt về thể loại, nên chủ đề đã được phát triển phức tạp hơn rất nhiều) như thuỷ tinh sắc cứa lên nỗi xót xa của một cảm giác như khi, vào một ngày nào đó trong cuộc đời ngắn ngủi này, ta bất chợt đối diện với một điều gì đẹp đẽ và kỳ diệu, song ngay phút ấy, ta cũng chợt hiểu rất rõ rằng, cái điều mong manh kỳ điệu đó đang qua, lướt rất mau khỏi chúng ta, và rồi chúng ta – những con người mang theo biết bao nhiêu giới hạn – không bao giờ có thể nắm giữ nổi vẻ đẹp đẽ, kỳ diệu rung thoảng mơ hồ của nó.
Đặc biệt phần ca từ trong bài hát Mùa Xuân đầu tiên của Văn Cao, theo tôi, cũng đã đạt tới vẻ tối giản của những suy ngẫm rất sâu sắc. Chúng ta cũng nên biết rằng, bài hát này đã được Văn Cao viết vào năm 1976, 1 năm sau ngày 30.4.1975. Vào thời điểm đó, dường như đã có một cơn vui chính thống và tập thể đang trào lan khắp Việt Nam, thể hiện qua vô số ca khúc chính thống, mà có lẽ hầu hết những ai sống ở Việt Nam lúc ấy hẳn còn nhớ như: Đất nước trọn niềm vui của Hoàng Hà, rồi một bài hát mà tôi quên tên có những ca từ như “Biển trời quê ta, đẹp như gấm hoa, nước non một nhà….”, hay bài Như có Bác Hồ của Phạm Tuyên, hoặc bài Tiếng hát từ thành phố mang tên Người của Cao Việt Bách, v.v. và v.v.. Tất cả các bài hát nói trên (và nhiều bài khác nữa) đều có chung đặc điểm là, được viết hầu hết trong giọng trưởng, với nhịp điệu mạnh mẽ, sảng khoái, giai điệu và ca từ vỡ òa trong những cơn vui dường như đã đạt tới độ thăng hoa.
Tuy nhiên, lạ thay, cái cơn vui và hân hoan tập thể hồng rực và thăng hoa ấy hoàn toàn không hề được phản chiếu chút nào trong bài hát nhỏ bé Mùa Xuân đầu tiên của Văn Cao. Trái lại, Ở đây, chúng ta chỉ thấy một “mùa bình thường nay đã về”, thấy hình ảnh đơn sơ của một “người mẹ nhìn đàn con nay đã về”, của những giọt “nước mắt trên vai anh, giọt sưởi ấm đôi vai anh”, để rồi thấy cái niềm vui hội ngộ sao chợt đậm lên vị mặn “long lanh” của giọt nước mắt – không phải giọt nước mắt ồn ào theo kiểu “vui sao nước mắt lại trào” của Xuân Hồng mà là giọt nước mắt thầm lặng, thấm thía chỉ ánh lên khe khẽ mà thôi.
Xuyên suốt bài hát, dù đâu đây, qua ca từ, hiện lên những hình ảnh của hội ngộ, của thanh bình như “tiếng gà gáy trưa bên sông”, hay của “niềm vui phút giây như đang mênh mông”, trội hẳn lên là một nỗi man mác xót xa, trước hết là trong giai điệu, được chở vừa khít bởi sự khoan nhặt của nhịp võng đưa ¾, và sau đó, là trong ca từ, vừa hiện thực vừa biểu tượng, thẩm thấu trọn vẹn vào giai điệu. Chính nỗi xót xa man mác này, với tôi, đã làm nên vóc dáng “tiên tri” (nếu có thể gọi được như vậy) của bài hát mà Văn Cao – trong vai trò một nghệ sĩ – vào thời điểm đó, do những nghịch cảnh, phải mang một thế đứng độc lập, ngoại biên – đã chỉ ra. Đây hoàn toàn không chỉ là một nỗi xót xa mỹ học theo kiểu Beethoven, mà là một nỗi xót xa của hiện thực, của hành vi suy ngẫm, của một nhắc nhở tiên tri về những khía cạnh khác, những versions khác, những khả năng khác của “chiến thắng”. Nói cách khác, đây chính là một nỗi xót xa đầy nhân văn, vượt lên trên mọi hân hoan hào hùng tập thể và chính thống để trông rõ được các cách ngăn khó bề san lấp, các nỗi đau, các chia cách về tâm lý, về quá khứ… mà rồi sẽ còn mãi đeo đẳng tất cả những người Việt Nam cho tới tận ngày hôm nay.
Chính tại nơi đây, chúng ta trông rõ tầm vóc của Văn Cao – trong vai trò của một nghệ sĩ, kẻ-ngoại-biên, kẻ mà định mệnh là luôn đứng ra ngoài bất kỳ hệ thống thống trội nào (dù ta hay địch, dù triết học, chính trị, hư vô, vô thần hay thần học…) để có thể – bằng sự nhạy cảm tiên tri (hình như thường làm hắn ta trở nên một kẻ kỳ quặc trong mắt kẻ khác) của mình – nhắc nhớ về những khả năng khác của mọi hiện-thực-được-đồng-thuận, thậm chí ngay cả khi những hiện thực ấy được đồng thuận tới mức độ 99,99999999…%
Cũng bởi thế, với riêng tôi, mấy câu hát trong đoạn điệp khúc của bài Mùa Xuân đầu tiên viết vào năm 1976 (ngay sau 1 năm của cuộc hợp nhất đầy khó khăn và đớn đau của nước Việt Nam) của Văn Cao:
”Từ đây người biết yêu người.
Từ đây người biết thương người.
Từ đây người biết quê người”.
Cho tới giây phút này, (đã) vẫn tự chứng minh trọn vẹn là những câu hỏi, những-câu-hỏi-tiên-tri:
Từ đây người biết yêu người?
Từ đây người biết thương người?
Từ đây người biết quê người?
N.H.
Bình luận
4 Comments (bài “Nghe bài hát đầu “Xuân””)
Ông Văn Cao là tác giả bài : “Tiến quân ca” đầy sắt-máu, hãi hùng….(.)
Tôi có 2 ý kiến nhỏ:
1. Tôi đồng ý với cảm nhận của người viết về bài hát “Mùa xuân đầu tiên”. Tuy nhiên, tôi không tán đồng việc cố quy ép từ tác phẩm với vai vế và chỗ đứng chính trị của nhạc sỹ. Hai chuyện nên bàn riêng, như đối với trường hợp của Trịnh Công Sơn. Cho nên cái đoạn suy ra của Như Huy từ chỗ “Chính tại nơi đây, chúng ta trông rõ tầm vóc của Văn Cao…” xem ra quá khiên cưỡng và mang nặng phán đoán cảm tính, như Phan Nhiên Hạo đã nói.
2. Xuất xứ của “Mùa xuân đầu tiên” có lẽ nhiều người biết và dễ dàng truy cứu thời điểm sáng tác. Nhưng tôi không rõ tại sao, gần đây, trong chương trình Bốn mùa 2, Trung tâm ASIA – một trung tâm công khai khuynh hướng chống cộng bằng văn nghệ, lại dựng lại bài hát này. Không lẽ ASIA không hiểu? Hay họ có một cách lí giải khác? Có ai biết giải thích giùm.
Tác giả ca ngợi nghệ sĩ như những “kẻ-ngoại-biên, kẻ mà định mệnh là luôn đứng ra ngoài bất kỳ hệ thống thống trội nào (dù ta hay địch, dù triết học, chính trị, hư vô, vô thần hay thần học…)”
Vậy hiện nay, theo tác giả, “hệ thống thống trội” của Việt Nam là hệ thống nào? Hệ thống nào có cả một bộ máy quyền lực và “đồng thuận” chính trị để tham nhũng, bóp hầu bóp miệng nghệ sĩ trí thức, tàn phá đất nước? Và thật ra mình có đang hưởng lợi (vật chất lẫn danh tiếng) từ cái “hệ thống thống trội” đó không? Trả lời được những câu hỏi đơn giản này một cách thẳng thắn thì sẽ trả lời được với lương tâm mình, và biết việc đề cao nghệ sĩ như “kẻ ngoại biên” trong lúc này thực ra là đang làm trò gì.
Lưu ý: trước khi là một kẻ “ngoại biên”, Văn Cao từng tham gia kháng chiến và có lúc trực tiếp làm những công tác “máu me” như ám sát.
Vào những năm 50 của thế kỷ trước, với chiến thắng vang dội tại Điện Biên Phủ, người Việt Nam đã có một niềm vui lớn vì đã giành lại độc lập từ tay người Pháp. Ngày ấy Văn Cao vạm vỡ với “Sông Lô”. Nhưng sau những ngày vui lớn ấy, tại miền Bắc, người anh hùng của “Sông Lô” lại âm thầm tự hỏi:
Bao giờ được bình yên
Ngắm một tranh tĩnh vật.
Sau đó, ông là “kẻ đứng bên lề”.
Cho đến 20 năm sau, kẻ không được “bình yên” là Văn Cao chỉ mong ước được “mùa bình thường nay đã về” là hạnh phúc lắm rồi.
Có thể mong ước của Văn Cao đến nay vẫn còn là một mong ước của nhiều người Việt Nam. Bao giờ được bình yên, ngắm một tranh tĩnh vật.
Cảm ơn nhà thơ Lý Đợi đã giới thiệu một bài viết hay