Tìm hiểu ý nghĩa tấm bản đồ chín gạch (chữ U) của Trung Quốc qua một vài kinh nghiệm lịch sử (3)
01/06/2009 | 10:02 sáng | 61 Comments
Category: Lịch sử, Quan hệ Việt – Trung, Vấn đề Biển Đông
Thẻ: Hoàng Sa-Trường Sa
8. Ý nghĩa của bản đồ 9 gạch
Tấm bản đồ này xuất hiện không biết chính xác từ khi nào (có nhiều nguồn nói khác nhau : xuất hiện năm 1914, 1920, 1930 ; thậm chí có nguồn nói xuất hiện từ thế kỷ 19 !) nhưng chắc chắn cũng là một thủ thuật cổ điển của TQ như dàn dựng các tên giả, hay hoán đổi tên các làng v.v… để chiếm đất của VN. TQ dựng ra tên Tiểu Đổ Chú Hà để lấy đất Tụ Long, dựng ngọn Tiểu Phân Mao Lãnh cướp đất Kiến Duyên và Bát Tràng, hoán đổi tên làng xã để chiếm đất Đèo Lương, vẽ bản đồ để chiếm thác Bản Giốc, xây đường rày xe lửa để chiếm đất Nam Quan… Chắc chắn tấm bản đồ chín gạch này dựng lên cũng để chiếm biển và đảo của VN, nó thay đổi nội dung tùy theo khả năng và tham vọng bành trướng của TQ.

Bản đồ chín gạch, có «móc và » quần đảo Sulu (giữa Mã Lai và Phi) và đảo Natuna của Nam Dương
Nghiên cứu bản đồ 2 ( trích từ cuốn La Chine, Une Puissance Encerclé?, xem mục tham khảo) tức bản đồ xác định lãnh thổ và ảnh hưởng chính trị của Trung Quốc trước năm 1840. Ta thấy có 21 vùng đất trước 1840 thuộc Trung Hoa hay thần phục Trung Hoa (ghi theo A, B, C…), đó là :
- Bản đồ 2, minh họa các vùng đất của TQ đã bị «mất» trước 1840
A: đảo Sakhaline, nhường cho Nga và Nhật. B : Vùng đất Đông Bắc, phía Đông Hắc Long Giang (Amour), nhượng cho Nga theo hiệp ước Bắc-Kinh năm 1860. C : Vùng đất Đông Bắc, phía Tây Hắc Long Giang, nhượng cho Nga năm 1858 theo hiệp ước Aigun. D : Mông Cổ, tuyên bố độc lập năm 1924. E : Cộng Hòa Touva, tuyên bố độc lập năm 1921, sau đó sát nhập vào Liên Xô năm 1944. F : Vùng đất Tây Bắc, nhượng cho Nga qua hiệp ước Tacheng 1864. G : Pamir, bị Nga và Anh bí mật lấy chia với nhau năm 1896. H : Népal, độc lập năm 1898, sau đó trở thành thuộc địa Anh. J : Sikkim, Anh chiếm năm 1889. K : Bhoutan, độc lập năm 1865, sau đó trở thành thuộc địa Anh. L : Vùng biên giới Tây Bắc, bị Anh chiếm. M : Assam, Miến Điện nhượng cho Anh năm 1826. N : Miến Điện, thuộc địa Anh năm 1886. O : Đảo Andaman, thuộc địa Anh P : Thái-Lan, độc lập nhưng dưới sự kiểm soát của Anh và Pháp năm 1904. Q : Đông Dương, thuộc địa Pháp năm 1885. R : Mã Lai (phần lục địa), thuộc địa Anh năm 1985. S : Quần đảo Sulu, thuộc địa Anh năm 1895. T : Đài Loan, nhượng cho Nhật qua hiệp ước Simonoseki năm 1895. U : Quần đảo Điếu Ngư, Nhật chiếm năm 1910. V : Triều Tiên, độc lập năm 1895, trở thành thuộc-địa Nhật năm 1910.
Hai bản đồ này biểu lộ tham vọng của TQ bắt đâu từ thập niên 50. Bản đồ 2 được chính thức đưa vào học trình của chương trình trung học của bộ giáo dục Trung Quốc từ năm 1950 trong khi bản đồ chữ U thì không.
Về ý nghĩa của bản đồ chữ U, chắc chắn vào thời đó chỉ nhằm xác định các đảo trong khu vực chữ U thì thuộc về TQ. Bởi vì quan niệm về chủ quyền vùng biển chỉ mới có sau thế chiến thứ hai, qua các công ước về Biển 1958 và 1982. Trước đó thế giới chỉ có quan niệm về “lãnh hải” 3 hải lý, là tầm đạn đại bác.
Khái niệm về biển lịch sử cũng khá mới, nhưng sau đó không được thế giới chấp nhận, do đó ý nghĩa biển lịch sử chữ U của TQ không thuyết phục cộng đồng thế giới.
Tham vọng về chủ quyền trên biển của TQ bắt đầu khi nào cũng không chính xác, nhưng chắc chắn chỉ mới biểu lộ sau này. Nhiều tài liệu trên thế giới đều xác nhận rằng dân tộc Hán là một dân tộc “quay lưng ra biển, hướng vô lục địa”. Để ý bản đồ 2, vào các thập niên 40-50, TQ xem Đài Loan là vùng đã bị mất. Đảo này, chỉ sát nhập vào TQ chậm trễ dưới thời nhà Thanh, do đề đốc Thi Lang. Cho rằng TQ có chủ quyền tại HS&TS, sau đó có chủ quyền vùng biển trên bản đồ 9 gạch, thì không có gì phi lý hơn.
Ở miền Nam VN ít ai nghe nói bản đồ 9 gạch. Năm 1974, sau khi chiếm HS, cũng không nghe nói đến bản đồ chữ U. Tuy nhiên, theo tài liệu của GS Tạ Quốc Tuấn, «Vài nhận xét về lập luận của hai chính phủ Bắc Kinh và Đài Loan» viết: năm 1974, « lần đầu tiên Trung-Cộng đã công-khai bộc-lộ rõ nguyên-nhân thầm-kín thúc-đẩy việc tranh-chấp chủ-quyền trên hai quần-đảo Hoàng-sa và Trường-sa: đó là nguồn tài-nguyên thiên-nhiên ở vùng này. Thực vậy, bản tuyên-bố ngày 11.1.1974 có câu: Các tài-nguyên thiên-nhiên trong các vùng biển quanh các quần-đảo này cũng thuộc về Trung-quốc. ». Cũng từ tài liệu này, ngày 4.2.1974, Bộ Ngoại-giao Trung-Cộng lại ra một bản tuyên-bố « Chính-phủ Trung-hoa đã nhiều lần tuyên-bố là các quần-đảo Nam-sa, Tây-sa, Trung-sa và Đông-sa tất cả đều là phần lãnh-thổ của Trung-quốc và nước Cộng-hòa Nhân-dân Trung-hoa có chủ-quyền bất-khả tranh-nghị đối với các quần-đảo này và các hải-khu chung quanh các quần-đảo đó. ». Tài liệu đề cập đến từ ngữ « hải khu », tức khu vực biển, nhưng không hề đề cập bản đồ chữ U.
Tập san Sử Địa 29, Đặc khảo về HS và TS, xuất bản tháng 1 năm 1975, không có dòng nào nói đến bản đồ chữ U. Tập tài liệu La Souveraineté sur les Archipels Paracels và Spratleys của bà Monique Chemillier-Gendreau in năm 1996 cũng không có dòng nào nói đến tấm bản đồ này, ngoài hai bản đồ đính kèm như là bằng chứng của TQ đòi hỏi vùng biển.
Theo tài liệu của ông Cao Xuân Thự, Chuyên viên Vụ Biển, Ban Biên giới của Chính phủ, công bố nhân dịp hội thảo Biển Đông hồi tháng 3 năm 2009, có ghi chép : Ngày 30 tháng 7 năm 1977 : « Tám ngày sau khi ông Đặng Tiểu Bình chính thức khôi phục lại địa vị, trong một tuyên bố chính sách đối ngoại của TQ, ngoại trưởng Hoàng Hoa nói : lãnh thổ của TQ chạy xa mãi về phía nam, tận bãi Tăng Mẫu gần Bornéo của Mã Lai…, các người có thể thăm dò chúng nếu các người muốn, nhưng khi thời cơ đến, chúng tôi sẽ thu hồi chúng hoàn toàn, không cần phải thuơng lượng gì hết vì các quần đảo đó có nguồn gốc thuộc về Trung Quốc… ». Đoạn này cũng không nói đến biển chữ U mà nói các quần đảo đó có nguồn gốc thuộc về Trung Quốc…
Trên báo chí, sách vở và tài liệu nước ngoài, bắt đầu đề cập đến tranh chấp biển Biển Đông từ thập niên 80. Nguyên nhân vào năm 1980, công ty Pertamina của Nam Dương khám phá mỏ dầu ở vùng đảo Natuna, bản đồ chữ U tái xuất hiện bao gồm thêm đảo Natuna. Việc này phía Nam Dương phản đối mạnh, báo chí có nhắc nhở. Ý nghĩa của bản đồ chữ U cũng chỉ giới hạn về chủ quyền các đảo thuộc TQ.
Về văn kiện chính thức, tác giả viết bài chưa đọc hay thấy tài liệu nào từ phía TQ chính thức dẫn tấm bản đồ chữ U, ngoại trừ công hàm ngày 7 và 8 tháng năm 2009 vừa qua để phản đối hai hồ sơ của VN mà Mã Lai (nộp chung).
Như thế, tạm kết luận rằng, bản đồ chữ U từ 1982 trở về trước có ý nghĩa : TQ có chủ quyền các đảo trong khu vực đó (đồng thời giả thuyết về vùng nước lịch sử của TQ).
Từ 1982 trở đi thì bản đồ chữ U có ý nghĩa : khẳng định khu vực biển của TQ. Điều này có thể hiểu vì năm 1982 Luật Quốc tế về Biển ra đời, theo đó, các đảo cũng có hiệu lực như trên đất liền về lãnh hải, vùng kinh tế độc quyền, thềm lục địa. TQ đã thông qua công ước này năm 1996. Do đó quan niệm chủ quyền về biển chữ U của TQ, sau 1982, do hiệu lực của HS và TS (vì TQ có chủ quyền ở HS và TS theo công hàm của ông Phạm Văn Đồng). Diện tích khu vực biển này co giãn tùy theo nhu cầu và đối tượng.
Giả thuyết về biển lịch sử của TQ khó đứng vững vì công ước về Biển 1982 không có khoản nào định nghĩa về biển lịch sử.
Nhưng TQ là bậc thầy về chiến lược; họ luôn úp úp, mở mở về ý nghĩa của bản đồ này, làm nhiều người không biết TQ muốn gì .
Sau khi TQ sát nhập đảo Natuna vào bản đồ chữ U, Nam Dương phản đối mạnh mẽ, đồng thời vũ trang mạnh. Đây là nước dông dân nhất khu vực Đông Nam Á và có quân lực mạnh nhất. Từ năm 2000 trở lại đây thì bản đồ chữ U loại trừ đảo Natuna, có nghĩa là TQ đã nhượng bộ. Thí dụ khác, bản đồ chữ U từ năm 1950 thì có thêm quần đảo Sulu, nhưng những năm sau này thì bản đồ này không bao gồm quần đảo này nữa.
Như thế, biển chữ U của TQ có thể rất lớn nếu các nước chung quanh lo sợ. Nhưng sẽ rất nhỏ, hay không có gì, nếu các nước chung quanh không nhượng bộ.
TQ đã ký và thông qua Luật Quốc tế về Biển 1982, bản đồ chữ U hôm nay chỉ là minh họa, thay đổi tùy theo tương quan lực lượng, nhưng chắc chắn ý nghĩa của bản đồ chữ U sẽ được TQ giải thích theo luật Biển 1982 cho dư luận quốc tế lúc cần thiết.
7. Kết luận
Ta thấy từ Tiểu Đổ Chú Hà, Tiểu Phân Mao Lãnh, đền thờ Phục Ba, đất Đèo Lương, núi Khấu Mai, đất Nam Quan, điểm nối ray, thác Bản Giốc (sau này có thêm vụ chuối xanh, vì chỉ có người Hoa trồng chuối trên biên giới), người Hoa thì đất của người Hoa, nghĩa trang người Hoa thì đất của người Hoa v.v… cho đến Thất Châu Dương, Cửu Nhũ Loa Châu, Thạnh Ðường, Thiên Lý Thạnh Ðường, Vạn Lý Thạnh Ðường, Trường Sa, Thiên Lý Trường Sa, Vạn Lý Trường Sa, bản đồ chín gạch… đều do phía TQ đặt ra để chiếm đất, chiếm đảo, chiếm biển của VN. Tất cả rõ ràng chỉ là những bịa đặt lếu láo, rất sơ đẳng, lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia, chỉ gạt được những người không biết. Đều trớ trêu là cái luận điệu sơ đẳng bịa đặt lặp đi lặp lại này đã giành được đất của dân tộc Việt Nam không biết bao nhiêu lần. Và có thể nó vẫn tiếp tục lường gạt được người Việt Nam.
Phải chăng dân tộc ta có vấn đề ?
Đến hôm nay vẫn còn học giả VN, có người vẫn ảnh hưởng hỏa mù của TQ qua các ý nghĩa của biển chữ U. Có người vẫn không dám đối diện với ý nghĩa của công hàm ông Phạm Văn Đồng, kể cả không muốn biết TQ đã có các âm mưu gì và sẽ có các âm mưu gì ?…
Khi hiểu cặn kẽ, ta có thể có các biện pháp thích ứng : Muốn đối phó với « biển lịch sử » của TQ, VN phải khẳng định chủ quyền HS và TS, khẳng định các đảo này có hiệu lực về hải phận ZEE và thềm lục địa theo định nghĩa của Luật Biển 1982. Bản đồ lịch sử chín gạch chữ U của TQ sẽ bị hiệu lực HS và TS hóa giải không còn cái gạch nào. Xem trường hợp đảo Natuna của Nam Dương thì rõ rệt. Nhưng muốn vậy, trước tiên VN phải mạnh và phải vô hiệu hóa công hàm của ông Phạm Văn Đồng. Trường hợp TQ trả đất Tụ Long cho VN năm 1724 cũng vậy, là do VN mạnh chứ không hề do hoàng đế anh minh nào cả. Nếu VN thời đó « yếu » (như hôm nay), chắc chắn Tụ Long đã mất trước khi Pháp vào VN.
Phương pháp để hóa giải bản đồ chín gạch, nếu TQ dưạ theo Luật Biển 1982 (giả thuyết này hầu như là 99%), phía VN cũng phải khẳng định chủ quyền các đảo HS&TS đồng thời đòi hỏi hải phận và thềm lục địa của các đảo theo Luật Biển 1982. Và muốn làm như thế cũng phải vô hiệu hóa trước tiên công hàm ông Phạm Văn Đồng.
Chính sách giữ nước của Đảng CSVN hiện nay có khuynh hướng hủy bỏ hiệu lực của các đảo HS và TS, tức tự hủy hoại thân thể, tự đốt nhà của mình. VN quá « yếu », không thể bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ VN, mặt khác, công hàm ông Phạm Văn Đồng đã tuyên bố HS&TS là của TQ, đòi lại sao được ? Do đó nhà nước CSVN nhất định để mất HS&TS chứ không tìm cách hóa giải công hàm này thông qua một quá trình dân chủ hóa và hòa giải dân tộc.
Dân tộc VN đổ máu làm gì để giữ những cục đá không giá trị đó nữa ?
Hồ sơ công bố của VN về thềm lục địa vừa qua đã cho thấy rõ rệt chính sách của nhà nước. Có thể có những « options » khác, có lợi cho VN, nhưng chưa chắc đảng CSVN sẽ chọn. Rất có thể quần đảo HS và TS sẽ không có hiệu lực, giá trị gì hết ! Đây là một quyết định nhất thời cứu nguy cho Đảng CSVN nhưng rất nguy hiểm, vì nó có ảnh hưởng không thể đảo ngược, làm mất vĩnh viễn quyền lợi của dân tộc VN tại HS và TS.
Vào các năm 1860 thời Tự Đức, lúc Pháp đã đặt chân ở Nam Kỳ và lăm le ra Bắc Kỳ, tình cảnh người dân Bắc Kỳ hết sức dửng dưng. Lúc quân Pháp chiếm thành Hà Nội thì dân chúng đổ ra coi, như là trò vui. Triều đình đối xử với dân như tôi mọi, như kẻ thù địch thì người dân xem việc Pháp chiếm đất là việc của nhà vua. Việt Nam thời nay không khác Việt Nam thời Tự Đức. Đất nước gặp lúc mạt vận thì dân tình nó như thế.
Chợt nghĩ đến bài “Bauxite Tây Nguyên, phép thử phản xạ tự vệ của quốc gia Việt” của tác giả La Thành mới đăng gần đây. Bài viết thật là hay, thâm thúy. Không biết bô-xít thử trí thức VN sẽ phản xạ thế nào, nhưng về HS&TS và Biển Đông thì mọi việc đã được nhà nước an bài, không cần phép thử nữa. Đây là hiện tượng báo trước rã đàn của dân tộc Việt!
Hay là Trọng Thủy đang giữ nội chính trong cung đình ? Ở điểm này cũng đáng để mất thì giờ nghiên cứu. Sẽ trở lại hồ sơ Trọng Thủy trong bài tới.
Nhưng nhìn lại như thế cho thấy giải pháp duy nhất để giữ nước hiện nay là « dân chủ hóa » đất nước. Đảng CSVN không thể vì quyền lợi của một nhóm người mà hy sinh quyền lợi lớn lao của cả dân tộc.
Tham khảo
Tài liệu internet
Tạ Quốc Tuấn, Vấn đề chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa: Vài nhận xét về lập luận của hai chính phủ Bắc Kinh và Đài Loan
Phạm Hoàng Quân, Tây Sa và Nam Sa trong sử liệu Trung Quốc, talawas, 11-12-2007
Nguyễn Quang Ngọc, Địa danh Trung Quốc các quần đảo giữa Biển Đông, Lịch sử một thế kỷ chuyển đổi, www.hoangsa.org
Cao Xuân Thự, Điểm lại những sự kiện chính trong cuộc tranh chấp chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và mấy nhận xét về cách gây xung đột về biển giữa Trung Quốc và Việt Nam, www.hoangsa.org
Tài liệu đóng tập
Tập san Sử Địa số 29, Đặc khảo về Hoàng Sa và Trường Sa, Văn Nghệ Khai Trí, từ tháng 1 đến tháng 3 năm 1975
Chemillier-Gendreau, Monique. La Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys. Harmattan, 1996
Fourniau, Charles. Vietnam Domination coloniale et résistance nationale 1858-1914. Les Indes Savantes, 2002
Brisset, Vincent. La Chine, Une Puissance Encerclé ?, IRIS, 2002
Tình hình Trung Quốc lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam từ năm 1954 đến nay của NXB Sự Thật, năm 1979
Tài liệu thuộc văn khố CAOM, Pháp
Deloustal. Les Mines de Tu-Long. AOM. Cote B 2899 ou B 6326.
Dévéria, La Frontière Sino-Annamite. Descriptions Géographique et Ethnographique. AOM, cote D 1198
Famin, Au Tonkin et sur la frontière du Quang-Si. SOM, cote C 43.
Dr Néïs , Sur Les Frontières Du Tonkin – Le Tour Du Monde, năm 1887. CAOM. BIB, SOM, Cote 20.543.
Les Frontières du VietNam. Histoire des Frontières de la péninsule Indochinoise. Paris, l’ Harmattan. 1989. AOM. Cote 42934.
Ministère des Affaires Etrangères de la RSVN 1981. Les Archipels Hoang-Sa et Truong-Sa.
Hồ sơ Phân định Biên giới 1886-1894 : Cartons : 65353, 65354, 65355, 65356, 65357, 65358, 65359, 65360. Indo, GGI.
Tài liệu Văn khố Bộ Ngoại giao Pháp
Hồ sơ « Công ước Pháp-Thanh 1887 ».
© 2009 Trương Nhân Tuấn
© 2009 talawas blog
Bình luận
61 Comments (bài “Tìm hiểu ý nghĩa tấm bản đồ chín gạch (chữ U) của Trung Quốc qua một vài kinh nghiệm lịch sử (3)”)
« Trang trước 1 … 3 4 5
Đây là sự kiện Indo thấy bản đồ liên quan tới vùng Natuna mà tôi nói tới trong post “05/06/2009 lúc 4:49 sáng”
Luận văn thạc sĩ quân đội Mỹ, “CHINA’S ENERGY SECURITY AND THE SOUTH CHINA SEA”
(http://www.dtic.mil/cgi-bin/GetTRDoc?AD=ADA407062&Location=U2&doc=GetTRDoc.pdf)
The situation worsened in July 1994, when China began to distribute a map claiming all the Spratly Islands and indicating to outside investors that it did in fact claim the entire South China Sea (Valencia et al. 1999, 27). Indonesia, the original sponsor of the three workshops for peace, reacted very negatively to this development; the Chinese claims appeared to cover the Natuna gas deposits, which were being developed by Exxon for Indonesia (Valencia et al. 1999, 27).
Tức là bản đồ này chỉ có chồng lấn với các vùng dầu khí thuộc Natuna, không bao gồm Natuna.
Theo 1 số tài liệu khác, đây là sự kiện tranh chấp đầu tiên giữa Indo và TQ.
Về việc 1 số sách ghi là TQ có đòi đảo Natuna, 1 số ghi là TQ chỉ đòi biển, tổng hợp nhiều khía cạnh tôi cho rằng nhóm sau chính xác hơn.
Dù sao đi nữa, kết luận “VN cần quân đội mạnh để đối đầu TQ” là một kết luận mà ai cũng biết rồi, không cần phải dùng 1 lập luận có nhiều lỗ hổng.