Trịnh Hữu Tuệ – Của sự im lặng
23/07/2009 | 11:00 sáng | 63 Comments
Category: Chính trị - Xã hội
Thẻ: Trần Hữu Dũng > Vai trò của trí thức
Trần Hữu Dũng là giáo sư kinh tế học tại Mỹ. Ông nằm trong số những trí thức được hưởng quyền tự do suy nghĩ và phát biểu vào loại bậc nhất trong lịch sử loài người. Vì vậy, tôi đọc những bài ông viết trên Viet-studies – website do cá nhân ông quản lý – với tiền giả định rằng chúng phản ánh đúng đắn quan điểm và cách nhìn nhận của ông. Tiền giả định này mang đến cho tôi một vài bận tâm mà tôi muốn trình bày một cách hết sức ngắn gọn trong những dòng dưới đây. Tôi hy vọng rằng độ dài của bài viết này sẽ không bị đặt trong quan hệ tỷ lệ thuận với tầm quan trọng và mức độ cấp bách của cái vấn đề mà người viết nó muốn mang ra thảo luận.
Tôi xin bắt đầu bằng nhận xét rằng khi Trần Hữu Dũng bàn về dân chủ, khả năng một xã hội đa nguyên cho Việt Nam hoàn toàn không được ông đề cập tới một cách hiển ngôn. Trái lại, ông phàn nàn rằng dân Việt Nam trong và ngoài nước “cứ tối ngày ngồi than Việt Nam không có dân chủ.”[1] Ông đưa ra kết luận không lấy gì làm đáng ngạc nhiên rằng “liên hệ giữa phát triển kinh tế và thể chế chính trị (cụ thể là dân chủ) … vẫn chưa rõ ràng và … sẽ không thể rõ ràng, vì có quá nhiều thông số,” và tuyên bố rằng “để thẩm định tác động kinh tế của dân chủ, ta phải nhìn xa hơn chế độ đương thời, xét cả đến kỳ vọng của dân chúng (thậm chí của cả giới đầu tư nước ngoài) về sự ổn định của chế độ ấy.”[2] Ta tự hỏi nếu được lựa chọn giữa một xã hội đa nguyên trong đó người dân có khả năng dùng phiếu bầu để bảo vệ môi trường và phong cách sống của mình và một xã hội chuyên chính trong đó người dân hoàn toàn bất lực về mặt chính trị nhưng sự “ổn định” được đảm bảo tuyệt đối bằng một bộ máy đàn áp khổng lồ thì “giới đầu tư nước ngoài” sẽ chọn môi trường đầu tư nào. Còn về “kỳ vọng của dân chúng,” chẳng phải phần đông chúng ta đều muốn “ổn định” để làm ăn, muốn được yên thân theo đuổi những mục tiêu mà “giới đầu tư nước ngoài” đã bỏ nhiều công để vạch ra cho chúng ta hay sao? Biết như vậy nên các cơ quan tuyên truyền chính thống luôn tìm cách biến “dân chủ” thành một khái niệm đối lập với “ổn định.” Cái newspeak này đã làm nhiều người – trong đó có cả thanh niên và sinh viên – sợ dân chủ như sợ cọp, sẵn sàng xông vào “hấp diêm” những phần tử rách việc dám kêu gào đòi “rân chủ.” Tôi không dám chắc là ảnh hưởng của nó hoàn toàn không hiện hữu trong suy nghĩ của Trần Hữu Dũng khi ông nhắc đến “kỳ vọng của dân chúng (và của giới đầu tư nước ngoài) về sự ổn định của chế độ.”
Trong tranh luận về tham nhũng, Trần Hữu Dũng cũng cho thấy rằng ông bám lề đường bên phải một cách tinh tế nhưng có lẽ là hăng hái hơn ông chịu công nhận. Tất cả những giải pháp ông đưa ra để giải quyết vấn đề khủng khiếp nhất hiện nay trong xã hội Việt Nam đều có xuất phát điểm là chính quyền nước này có thể cải thiện được. Ví dụ, ông nói rằng để giảm động lực tham nhũng, “cấp lãnh đạo” cần phải “thanh liêm và trong sạch.” Nhưng cái khả năng – kể cả về mặt lý thuyết – rằng “cấp lãnh đạo” không thể trở nên thanh liêm và trong sạch được nữa hoàn toàn không được ông nhắc tới. Thậm chí, ông còn khuyên mọi người “nên thông cảm” với các nhà lãnh đạo, vì họ “dù có đánh giá cao các nghiên cứu kinh tế, cũng bị ràng buộc bởi những vấn đề khác, có những mục tiêu khác ngoài kinh tế, mà nhà kinh tế thuần tuý không nghĩ đến.”[3] Cấp lãnh đạo sẽ hoan nghênh sự “thông cảm” này, và họ cũng sẽ hoan nghênh lời cảnh báo mà Trần Hữu Dũng đưa ra trong bài Tham nhũng và tăng trưởng kinh tế, rằng tham nhũng là một “hiểm họa quan trọng đặc biệt cho chế độ,” rằng phải coi chừng “sự bất bình của người dân đối với một chế độ xã hội chủ nghĩa … bị tham nhũng đục khoét.” Đây cũng là bài viết được Trần Hữu Dũng kết thúc bằng một đoạn văn dài trích lời Thủ tướng Võ Văn Kiệt – một lãnh đạo của các lãnh đạo, một vị thánh của báo chí chính thống. Trong đoạn văn này, Thủ tướng Kiệt bày tỏ nỗi “ray rứt” của mình khi thấy “tham nhũng lại nằm trong bộ máy Nhà nước” và dặn chúng ta rằng “ở cương vị càng cao thì càng phải tuân thủ phép nước.”[4] Vì thông tin tôi có về lịch sử chống tham nhũng và tuân thủ phép nước của Thủ tướng Kiệt có phần hạn chế nên tôi xin để bạn đọc tự đánh giá những “ray rứt” nói trên cũng như việc Trần Hữu Dũng trích dẫn chúng.
Như đã nói, Trần Hữu Dũng là một giáo sư có biên chế tại một trường đại học của nước Mỹ. Trong bối cảnh thế giới hiện tại, vị thế này khiến ông trở thành chuẩn mực cao nhất của tự do ngôn luận. Ông có điều kiện phát biểu những ý kiến mà rất nhiều người không bao giờ dám phát biểu, và phải nói rằng ảnh hưởng của ông đối với giới trí thức trẻ là rất lớn. Chính vì lý do đó, sự im lặng của ông về những khả năng chính trị rõ ràng là đang cần được tranh luận một cách cởi mở sẽ trở thành thông điệp mạnh mẽ về giới hạn của cái được nói, về những gì “đến giáo sư Mỹ còn chẳng dám bàn.” Bằng cách né tránh chủ đề đấu tranh dân chủ cho Việt Nam, ông đã vô tình giúp sức biến nó thành một chủ đề cấm kỵ, và đây là cách đấu tranh chống dân chủ một cách hiệu quả nhất. Tệ hại hơn nữa, sự né tránh của ông để lại cho người đọc ấn tượng về một nỗi sợ hãi, âm thầm và sâu sắc, ẩn mình dưới những phân tích an toàn về mặt chính trị, dưới cái tư thế được ông mô tả là “khách quan, đúng đắn, không phá đám, cũng không cuồng tín,” nhưng lại điều khiển suy nghĩ và lời nói của “nhà khoa học” một cách tàn nhẫn.[5] Sợ hãi là một căn bệnh lây lan, và trong thời điểm lịch sử đầy thử thách như hiện nay, khi dân tộc Việt Nam cần phải có đủ lòng quả cảm để “chặt cầu tiến lên,”[6] sự sợ hãi, ở những trí thức có vị thế và điều kiện như giáo sư Trần Hữu Dũng, có lẽ là điều đáng sợ hãi nhất.
[1] Xem Gặp ‘ông chủ’ Viet-studies, Người Đô thị, Tháng 9/2008
[2] Xem Trần Hữu Dũng, Dân chủ và phát triển: Lý thuyết và chứng cớ, Thời Đại Mới, Số 10, Tháng 3/2007
[3] Xem Trần Hữu Dũng, Ta cần biết ta hơn nữa, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Số Tết Đinh Hợi, Tháng 2/2007
[4] Xem Trần Hữu Dũng, Tham nhũng và tăng trưởng kinh tế, Nghiên cứu Kinh tế, Tháng 4/1999
[5] Xem Gặp ‘ông chủ’ Viet-studies, bài đã dẫn. Trần Hữu Dũng khen báo Công an Nhân dân “có mục văn hóa khá.” Về những cái không được “khá” cho lắm của tờ báo này, ông không có phát biểu gì chính thức. Nỗi sợ hãi của ông còn xuất hiện trong những chi tiết nhỏ khác, ví dụ như trong đoạn đầu bài “Ta cần biết ta hơn nữa,” khi ông nói “[c]ó người (như nhà kinh tế nổi tiếng Jagdish Bhagwati, nguyên cố vấn cho Tổng thư ký WTO) khẳng định rằng vài nước (ông có nêu tên, nhưng người viết bài này không dám lặp lại vì hơi… nhạy cảm!) đã gia nhập WTO khá dễ dàng chỉ vì họ hạ bút ưng thuận soàn soạt mọi điều kiện mà đối tác đặt ra.”
[6] Xem Vũ Minh Khương, Việt Nam: Chặt cầu để tiến lên?, Tuần Việt Nam, 13/7/2009
Tôi không biết phải lấy cái khoa học nào để xét cái này:
Phóng viên giáo dục: Đến lúc giáo dục phải đổi thay tận gốc (TVN 22-7-09) – Câu này đã nghe vài chục năm rồi và chắc còn sẽ nghe vài chục năm nữa!
Trích ở viet-studies.info mục văn hóa & giáo dục. (Tôi xin gạch dưới câu phê của GS, sự thật hay tiềm thức tôi cũng xin miễn bàn)
Ở một thời điểm nào đó những việc làm hay chuyện nói của GS THD không thành vấn đề đối với tôi – xin nhấn mạnh đối với tôi – tôi vẫn nể phục tài năng của GS.
Bây giờ nước sắp ngập đầu cho nên tôi xin được chia sẻ những bức xúc của GS Vũ Minh Khương và ông Lê Quốc Trinh.
Có những việc đã xảy ra như:
1/ Chuyện bắt bớ các bạn trẻ và không được trẻ nhưng tranh đấu cho dân chủ bởi bộ máy cầm quyền tại VN, cái bộ máy vẫn chơi “hèn” và “ăn gian” kiểu vừa chơi vừa thổi kèn từ xưa tới nay, cái này tôi nghĩ khỏi cần bàn.
Tôi phục các bạn tìm đủ mọi cách để được “chơi” cho đàng hoàng nhưng sự thật cho thấy các bạn cứ bị ghi bàn hoài, bị bôi đủ thứ phấn màu lọ nghẹ trên mặt, bó tay luôn.
2/ Vụ những người cầm quyền tính qua mặt dân chúng mang bán rẻ tài nguyên và con người của đất nước (vụ Bauxite) cho Trung Quốc, dù cho có nhiều người thấy những nguy hiểm về mọi mặt xin can.
3/ Vụ “giao thiệp” và “yêu cầu” bọn bành trướng trong vụ Biển đông và biên giới.
Xin cho tôi không đi xa hơn trước năm 1975, rõ ràng từ ngày đó tới nay những người cầm quyền ở VN không làm tốt hơn việc gì cả, càng ngày càng xuống dốc không phanh.
Tôi không tin ở phong cách cải lương (xin lỗi không phải cải lương vọng cổ sáu câu mà tôi rất khoái).
Tôi xớ rớ vào những chuyện có những chỗ vượt quá “tài” của tôi, nhưng tôi vẫn xớ rớ.
Tôi không tin chuyện thể chế cầm quyền ở VN hiện nay có thể cải lương.
Hai ý chính của tôi đã đăng ngày 25/7/09
1- DÂN CHỦ, TỰ DO NGÔN LUẬN, ĐA NGUYÊN, ĐA ĐẢNG …là những đề tài cấm kỵ ở VN. Đòi hỏi ông Trần Hữu Dũng phải bàn về những đề tài chính trị như “khả năng một xã hội đa nguyên cho Việt Nam”,… là điều phi lý. Phi lý không phải vì nội dung đòi hỏi sai, mà vì làm như vậy sẽ mâu thuẫn với nguyên tắc hành động hiện tại của ông THD, hoạt động trên “những vùng trống có thể làm được”. (THD)
2- Tôi nghĩ ông Dũng đang “làm một điều gì đó” cho đất nước theo cách của ông ta, trong điều kiện có thể.
Tiếp theo xin trả lời ý kiến, ngày 27/07/09, của “clasicalmood” theo từng ý:
1- Quan hệ giữa chính quyền (cs) Việt Nam và các trí thức Việt kiều (về nước hợp tác với chính quyền) thuộc dạng “có qua có lại”, được biểu hiện trong “NGHỊ QUYẾT 36 của Bộ Chính trị về Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (http://www.mofa.gov.vn/vi/vd_quantam/ns041215094700). Xin trích vài đoạn.
Đối với trí thức, chính quyền muốn “thu hút sử dụng chuyên gia, trí thức người Việt Nam ở nước ngoài tham gia công việc ở trong nước, …”
Đổi lại, chính quyền hứa “đãi ngộ thỏa đáng đối với những chuyên gia, trí thức người Việt Nam ở nước ngoài có trình độ chuyên môn cao, …” và “tạo điều kiện thuận lợi để người Việt Nam ở nước ngoài (trong đó có trí thức) về thăm quê hương, thân nhân, thờ cúng tổ tiên.”
Quan hệ qua lại này là bình thường. Điều không bình thường, trong nhiều trường hợp, là những lý do và cách chính quyền rút lại lời hứa khi không cấp visa, hay cấp visa nhưng từ chối nhập cảnh.
2- DÂN CHỦ , TỰ DO NGÔN LUẬN, ĐA NGUYÊN, ĐA ĐẢNG …là những đề tài cấm kỵ ở VN. (Nếu ai cho rằng điều này không đúng, xin bảo lưu ý kiến riêng).
Những ai ở VN công khai đòi hỏi về DÂN CHỦ , TỰ DO NGÔN LUẬN, ĐA NGUYÊN, ĐA ĐẢNG … sẽ bị theo dõi, bị quản thúc, hoặc bị đi tù. Xin miễn cho tôi nêu danh sách ngày càng dài những người đấu tranh dân chủ đã/đang bị giam giữ.
Về ls Cù Huy Hà Vũ, ông bị tước quyền hành nghề luật sư sau khi kiện thủ tướng NTD. Tạm thời là vậy. Mong sao với thân thế của mình, ông Vũ không bị ném bẩn như cụ Hoàng Minh Chính, nhà văn Trần Khải Thanh Thủy, …
Về nhạc sĩ Tô Hải, ông đã quá già và đang bệnh tật. Nhiều khả năng chính quyền sẽ không bắt ông. Tất nhiên, nếu là Việt kiều, ông sẽ bị trục xuất. Nhân tiện, nên nhắc đến “Hồi Ký Một Thằng Hèn” của ông. Trong nhật ký ông mô tả rất kỹ quan hệ qua lại giữa chính quyền và trí thức, cách chính quyền dùng quyền lợi để ràng buộc trí thức, những điều cấm kỵ và sự trừng phạt của đối với những người phạm húy kỵ.
Tôi tin rất nhiều người đồng ý rằng, DÂN CHỦ , TỰ DO NGÔN LUẬN, ĐA NGUYÊN, ĐA ĐẢNG …là nhưng đề tài cấm kỵ ở VN.
3- Cụ Cao Bá Quát phân kẻ sĩ (trí thức) thành ba loại: chim Hồng Hộc, chim Hạc Đen, và chim Hoàng Yến. Rất khó xếp ông THD vào nhóm chim Hồng Hộc, ông THD cũng không phải là Hạc Đen. Vì vậy phải để ông THD vào nhóm “chim cảnh”- chim Hoàng Yến.
Xin đưa ra giả định: Có thể ông THD là chim Hồng Hộc đang tạm đội lốt chim Hoàng Yến. Nếu đúng là vậy thì tất cả cùng vui.
4- Hiện tại ông THD né, không bàn nhiều về mảng chính trị trên Viet-studies là điều mọi người nhận thấy. Đâu cần phải dựa vào tuyên bố hay văn bản nào của ông THD. Trong việc này, hãy nhìn ông THD làm hơn là nghe ông THD tuyên bố. Tôi không bảo né chính trị là là sai (bad), và không ai dám khẳng định ông THD không thay đổi phương pháp trong tương lai.
5- Ai đi sâu vào những vùng cấm, như đã nói ở mục 2-, sẽ bị theo dõi, bị quản thúc, hoặc bị đi tù. Nếu là Việt kiều thì cấm vào, đã vào thì đuổi ra. Tất cả được đưa chung vào một rọ “chống phá nhà nước”. Tại sao ông THD sẽ là ngoại lệ?
Nếu quy định trong lớp “Lá” (ở nhà trẻ) là: Ai không nghe lời cô giáo 3 lần trong một ngày, sẽ phải úp mặt vào tường, thì giả định ngày mai bé Hùng nào đó không nghe lời cô bé sẽ bị úp mặt vào tường. Trong phần lớn các trường hợp, kết luận này là đúng. Có ngoại lệ nào để bé không phải úp mặt vào tường không? Có! Nhưng khi đưa ra dự đoán kết quả trong tương lai, không thể nói theo ngoại lệ.
6- “Clasicalmood” nói: “nếu có thể xảy tương tự với một ai đó thì vẫn chưa có thể kết luận 100% là sẽ xảy ra với ông THD.” Thứ nhất, tương lai không tuyệt đối; không có khẳng định 100% cho tương lai. Thứ hai, tôi có thể lý luận theo kiểu của “clasicalmood”: “Chưa thử sao biết là không bị bắt. Thử đi sẽ biết liền”. Nếu chấp nhận lý luận này thì chẳng ai dám khẳng định điều tôi nói là không thể xẩy ra cho đến khi nó xẩy ra. Nếu nó không xẩy ra thì vẫn có thể nói cố, ví dụ, cứ chờ đấy, sớm hay muộn nó phải xẩy ra.
Tôi xin kết thúc ở đây.
Phần thêm không liên quan đến nội dung bài viết: “clasicalmood” mở đầu bằng câu: “Khuôn khổ, thời gian eo hẹp mà Arthur muốn giãi bày chi tiết thì đành chiều vậy nhưng bình tĩnh nhé vì tranh luận một cách logic lắm lúc gây nhiều khó chịu”. Hành văn kiểu này hơi lạ, đặc biệt là câu phủ đầu “bình tĩnh nhé”. Cứ như là bắt đầu một trận đấu! Còn trao đổi suy nghĩ là điều bổ ích, tai sao lại khó chịu được. Tôi nghĩ, cách mở bài này không friendly.
Nguyễn Phú Thịnh nói: “Một số người chẻ nhỏ bài của ông Tuệ ra, thậm chí từng câu từng chữ ra, rồi dùng các lý thuyết tư duy logic để nhận xét và phản biện. Nếu chỉ đọc các bài bài phản biện này mà không/chưa đọc bài của ông Tuệ, thì một người có khả năng đọc hiểu bình thường sẽ hình dung về bài của ông Tuệ một cách hoàn toàn khác.”
Thực ra, nếu chỉ đọc bài của ô. Tuệ mà không/chưa đọc bài của ông TH Dũng, thì một người có khả năng đọc hiểu bình thường sẽ hình dung về bài của ông Dũng một cách hoàn toàn khác.
Chẳng hạn, ông Tuệ đem nhiều câu từ bài Dân chủ và phát triển: Lý thuyết và chứng cớ (http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai10/200710_THDung.htm) của TH Dũng để chứng minh rằng ông Dũng có thái độ lập lờ, né tránh, sợ hãi. Nhưng ô. Tuệ lại không nhắc tới đoạn mà ông Dũng viết ở ngay cuối bài (trong cách viết essay của giới đại học, đây là chỗ người ta thường để những kết luận quan trọng nhất):
“Tách rời dân chủ và phát triển (không phủ nhận, cũng không khẳng định) như hai mục tiêu khác nhau còn giúp “giải phóng” nhà khoa học khỏi những thiên kiến ngoài kinh tế. Cần tập trung vào những yếu tố không thể phủ nhận (1) tham nhũng, lãng phí, bất công xã hội chắc chắn sẽ làm trì trệ phát triển, và (2) “tự do” có một giá trị to lớn, tự tại, biệt lập với phát triển kinh tế”.
Tức là, TH Dũng gửi một thông điệp: hãy đòi tự do vì tự do tự nó quí giá, nên có, chứ đừng đòi tự do (chỉ) để phát triển kinh tế! Theo tôi, đây là một luận cứ rất đáng suy ngẫm.