trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
Xã hội
Kinh tế
  1 - 20 / 135 bài
  1 - 20 / 135 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Xã hộiKinh tế
6.6.2006
Trần Bình
Kinh tế Việt Nam trước ngưỡng cửa hội nhập
 1   2 
 
Thị trường lao động

Lao động là “tài sản chính của Việt Nam” trong quá trình phát triển, dù rằng do một số mặt hạn chế, các doanh nghiệp đã xem đây là cản trở đứng thứ ba sau nguồn vốn và đất đai. Nền kinh tế phát triển nhanh tạo nhu cầu lao động tăng vọt, dẫn đến hiện tượng di chuyển kép: di chuyển về nghề nghiệp từ việc làm nông nghiệp sang các việc làm phi nông nghiệp và sự di chuyển dân cư từ nông thôn ra thành thị, trong đó lao động nữ chiếm phần lớn. Lao động nông nghiệp đã giảm từ khoảng 50% năm 1990 xuống dưới 40% hiện nay, 30% dân số Thành phố Hồ Chí Minh là dân ngoại tỉnh là một trường hợp điển hình. Ý thức kỷ luật, chăm chỉ, hiếu học, và chi phí lương thấp là những đặc điểm và thế mạnh của lao động Việt Nam. Theo Điều tra Mức sống Hộ gia đình (ĐTMSHGĐ) 2004, tính cả giá trị lợi ích bằng hiện vật, mức lương trung bình khoảng 824 nghìn/tháng cho lao động đơn giản, 220-250 đôla cho kỹ sư, và 500 đôla cho cán bộ văn phòng. Sự tồn tại của hai mức lương tối thiểu hiện nay áp dụng cho doanh nghiệp trong nước và nước ngoài phải được loại bỏ khi Việt Nam gia nhập WTO, vì chế độ này mâu thuẫn với nguyên tắc “đối xử quốc gia”. Nhưng nếu chỉ chú trọng vào mức lương sẽ dẫn đến việc không đánh giá đúng lao động ở Việt Nam vì đã “bỏ qua ý thức đạo đức làm việc rất đáng chú ý của xã hội Việt Nam”. Những dữ kiện về quá trình tăng trưởng việc làm trả lương và bình đẳng hoá tiền lương cũng rất đáng chú ý. Bảng tổng kết các cuộc điều tra của TCTK, Điều tra Mức sống Dân cư và ĐTMSHGĐ dưới đây cho thấy sự gia tăng rất đáng kể tỷ lệ việc làm trả lương, từ khoảng 16% năm 1993 lên 27 % năm 2004. Riêng khu vực tư nhân bao gồm FDI chiếm hơn 18 % dân số trong tuổi lao động. Sự khác biệt về tiền lương giữa hai miền Nam và Bắc, nam và nữ đã giảm rõ rệt. Chẳng hạn, mức lương trung bình ở Thành phố Hồ Chí Minh vào năm 1991 xấp xỉ gấp đôi ở Hà Nội và Hải Phòng; đến năm 1997, khoảng cách này dao động trong khoảng từ 30 đến 50%. Mức lương chênh lệch giữa nam và nữ vào đầu thập niên 90 là 32% giảm xuống còn 16% năm 2004.



Tỷ lệ thất nghiệp tại Việt Nam thấp và không đáng ngại vì đa số những người thất nghiệp đều còn trẻ, là những người tương đối có trình độ gia nhập thị trường lao động. Mặt khác, vẫn tồn tại tình trạng thất nghiệp ngầm trong các DNNN. Trung bình có 49 lao động (19%) bị mất việc trong quá trình cổ phần hoá của 2.228 DNNN đã bộc lộ trình trạng thừa biên chế này. Việc trình độ học vấn ngày càng được đánh giá cao khi ấn định mức lương là yếu tố tích cực, song đồng thời cũng manh nha cho sự hình thành một dạng bất bình đẳng khác trong quá trình phát triển. Sự thiếu hụt lao động có tay nghề và tỷ lệ luân chuyển quá cao đối với lao động có trình độ, đặc biệt tại miền Nam, là mối quan ngại lớn đối các doanh nghiệp. Tỷ lệ luân chuyển lao động từ 2001-2003 lên đến 43,4% trong các xí nghiệp nước ngoài. Tình trạng này cho thấy cần phải xem xét lại chính sách đào tạo dạy nghề tại Việt Nam. Song chừng nào vẫn còn khoảng cách về công nghệ giữa các doanh nghiệp, sẽ khó có thể làm giảm được tỷ lệ luân chuyển, vì người lao động sau khi học được kỹ năng ở các doanh nghiệp có công nghệ cao sẽ dễ dàng được thu nhận tại các doanh nghiệp đang cần các kỹ năng ấy với mức lương cao hơn.

Cho đến khi Luật Lao động ban hành năm 1994, chỉ có người lao động trong khu vực nhà nước được hưởng quyền an sinh xã hội. Tỷ lệ lương đóng cho Chương trình Bảo hiểm Xã hội (BHXH) là 20%, trong đó có 15% do doanh nghiệp đóng góp. Tiến trình mở rộng an sinh xã hội diễn ra chậm nhưng đáng kể; số lao động được hưởng chương trình BHXH đã tăng từ hơn 3 triệu năm 1996 lên xấp xỉ gấp đôi vào năm 2004. Quan hệ lao động trong lĩnh vực công nghiệp có hai đặc điểm đáng chú ý. Tình trạng tranh chấp lao động tại Việt Nam tương đối thấp; hầu hết những cuộc đình công xảy ra ở các công ty nước ngoài ở miền Nam. Thứ hai, bản bán cáo của các doanh nghiệp Đài Loan cho thấy tinh thần đấu tranh của công nhân Việt Nam rất cao: “Bạn không thể động đến được người lao động Việt Nam, chứ đừng nói là lạm dụng họ. Họ dễ tham gia vào các cuộc phản đối tập thể. Ở Trung Quốc, chúng tôi dùng cách quản lý theo Đài Loan, trừng phạt, thậm chí cả đánh đập. Ở Việt Nam việc bảo vệ quyền của người lao động rất nghiêm nhặt. Đây là điều chúng tôi hoàn toàn không ngờ tới”. Bản báo cáo kết luận cần phải thay thế biện pháp “quân sự” áp dụng tại Trung Quốc bằng biện pháp “mềm dẻo” tại Việt Nam.

Hạ tầng cơ sở

Tuy có đến 20% doanh nghiệp nhất là khu vực FDI cho rằng hạ tầng cơ sở là “trở ngại nghiêm trọng” nhất cho hoạt động của doanh nghiệp vì hạ tầng giao thông thiếu thốn và giá điện, điện thoại cao, nhưng nhìn chung, Việt Nam đã “duy trì được tốc độ tăng trưởng đáng khâm phục về hạ tầng cơ sở kể từ năm 1990”. Năm 2004, điện khí hoá đã đạt 100% ở thành thị và 88% tại nông thôn. Hệ thống đường bộ tăng từ 96 lên 224 ngàn km từ năm 1990 đến năm 2004, trong đó tỷ lệ đường tốt tăng từ 37% lên 45% từ năm 1997 đến năm 2002. Số điện thoại trên 100 người dân tăng từ 1,1 năm 1995 lên 9,2 năm 2002. Từ năm 1993 đến năm 2004, nước sạch tăng 35% - 87%, nhà vệ sinh từ 10% - 32%. Nhìn chung, sự phát triển hạ tầng cơ sở đã dẫn đến giá cả dịch vụ ngày càng gần hơn với mức giá trong khu vực:



Khoảng 9% GDP được đầu tư cho hạ tầng cơ sở hiện nay là một tỷ lệ khá cao. Tỷ trọng đầu tư của tư nhân trong lĩnh vực này tăng lên khoảng 16% trong những năm gần đây là một con số khích lệ, nhưng cần được tiếp tục nâng cao qua các biện pháp hỗ trợ thu hồi vốn và khuyến khích cạnh tranh. Mặt khác, vì việc thu hồi vốn rất chậm và thấp không hấp dẫn đối với khu vực tư nhân, việc phát triển hạ tầng cơ sở trong những năm tới vẫn sẽ phụ thuộc chính vào đầu tư công; do đó, cần phải phân tích nghiêm ngặt hơn về lợi ích tài chánh và kinh tế trong việc lựa chọn dự án và tăng tính minh bạch trong việc huy động vốn và quản lý dự án là những mặt yếu kém và dễ phát sinh tham nhũng hiện nay.

Nhưng điều làm ngạc nhiên nhiều người đang theo dõi kinh tế Việt Nam là những cản trở của hệ thống pháp lý, các thủ tục hành chánh quan liêu và tình trạng tham nhũng trong hoạt động kinh doanh tại Việt Nam không bị các doanh nghiệp tham gia cuộc điều tra coi là nghiêm trọng, ở mức độ thấp hơn hẳn so với các nước khác ở Đông Á hay các khu vực khác trên thế giới. Sự giải thích vì sao hệ thống pháp lý không được coi là có tầm quan trọng cao có thể do mối giao dịch giữa các doanh nghiệp cơ bản vẫn dựa vào chữ tín và các phương thức thô sơ nhưng đáng tin cậy để bảo đảm mức an toàn. Các thủ tục đơn giản hoá từ năm 2000 theo Luật Kinh doanh, được bổ sung với cơ chế một cửa về thủ tục cấp giấy phép có thể là lý do tại sao tệ trạng quan liêu không bị đánh giá là nghiêm trọng. Nhưng việc coi tham nhũng không phải là hạn chế quan trọng là điều bất ngờ hơn cả. Mặc dù Tổ chức Minh bạch Quốc đã xếp hạng tham nhũng tại Việt Nam rất cao, nhưng nhiều cuộc điều tra khác nhau đều đã dẫn đến cùng kết luận: Tham nhũng xảy ra rất phổ biến, nhưng ảnh hưởng trực tiếp đến các doanh nghiệp chỉ ở mức độ nhỏ, thông qua nhiều khoản hối lộ nhỏ, chiếm khoảng 0,7% tổng doanh số, thấp hơn so với những quốc gia khác ở cùng trình độ phát triển. Bốn cơ quan chính phủ bị xếp hạng tham nhũng cao nhất trong cả hai cuộc điều tra của WB và Ban Nội chính Trung ương: Cảnh sát giao thông, hải quan, địa chính và thuế vụ. Có thể giải thích quan điểm dễ tính của các doanh nghiệp là vì họ đã làm quen với tham nhũng và số tiền hối lộ trung bình 1,8 triệu là nhỏ đối với doanh nghiệp. Nhưng điều này không phủ nhận những hình thái tham nhũng khác trong các DNNN, cũng như các dự án đầu tư công, và những tác động trên mặt đạo đức xã hội, đời sống của các thành phần kinh tế yếu kém trong xã hội. Những khoản chi phí không chính thức, từ việc “học thêm tự nguyện”, đến các chi phí y tế ngoài khả năng trang trải có thể gây phẫn nộ với người dân.



5. Hội nhập phát triển và nội dung của cuộc cải cách vòng hai

Những cải cách nhằm tuân thủ các qui định của WTO và cải thiện năng lực cạnh tranh trên thương trường quốc tế sẽ thúc đẩy năng suất từ trung đến dài hạn, song đồng thời cũng sẽ là những thử thách đối với các doanh nghiệp Việt Nam và có thể tác động tiêu cực đến môi trường và một số khu vực sản xuất ngắn và trung hạn. Quá trình hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu qua việc tham gia khu mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và hiệp ước song phương Việt-Mỹ, đã giúp cho thị trường trở nên cạnh tranh hơn và buộc các doanh nghiệp trong nước phải thay đổi cơ cấu và tăng năng suất. Song việc gia nhập WTO sẽ còn đẩy chương trình cải cách đi xa hơn nữa nhằm tạo ra một sân chơi bình đẳng giữa các doanh nghiệp công và tư, trong nước và nước ngoài. Hơn thế nữa, nền kinh tế Việt Nam đang phát triển nhanh, ngày càng lớn mạnh và trở nên phức tạp hơn, vì thế yêu cầu cải thiện môi trường pháp lý minh bạch và hiệu quả ngày càng khẩn thiết.

Con đường hội nhập

Hàng rào thuế quan và hạn ngạch nhập khẩu đã gỡ bỏ dần khi Việt Nam gia nhập Khu vực Tự do Thương mại ASEAN (AFTA) năm 1995, Hiệp định Thương mại Việt Mỹ năm 2001 và các nghị định ban hành năm 2004. Việt Nam cũng đã cam kết với WTO sẽ hạ mức thuế quan xuống thấp hơn nữa, trung bình 18%. Con số này tương đương với mức trung bình của Trung Quốc trước khi gia nhập WTO và sẽ tiếp tục giảm qua các cuộc đàm phán song phương. Số lượng các mặt hàng phải chịu hạn ngạch nhập khẩu đã giảm xuống từ năm 1999, đến cuối năm 2005 căn bản chỉ còn áp dụng với đường và xăng dầu. Vì Việt Nam không được hưởng những ưu đãi dành cho những nước nghèo nhất, các chế độ trợ giá phải bãi bỏ sau khi gia nhập WTO. Tuy nhiên, với tư cách một quốc gia đang phát triển, Việt Nam vẫn có thể bảo lưu một số biện pháp hỗ trợ 10% giá trị sản lượng. Trên thực tế, chỉ có đường là sản phẩm còn nhận trợ giá đáng kể, cần phải cắt giảm. Ngoài ra, các biện pháp trợ giá vẫn cho phép trong một số lĩnh vực như hạ tầng cơ sở, môi sinh, phát triển vùng yếu kém và các công trình nghiên cứu. Từ năm 2001, những cải cách thuế quan đã giảm phân nửa mức bảo hộ trong ngành chế tạo, nhưng các trợ giá ngầm hiện nay như Quỹ Hỗ trợ Xuất khẩu, Quỹ Hỗ trợ Phát triển, và các ưu đãi dành cho các DNNN sẽ phải được huỷ bỏ để tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh hơn theo nguyên tắc của WTO. Trường hợp các công ty thương mại quốc doanh hiện đang chiếm lĩnh một nửa số giao dịch ngoại thương là một ví dụ.



Từ năm 2002 đến 2006 Việt Nam đã cơ bản viết lại hầu hết các luật và qui chế tác động hoạt động thương mại và các thủ tục pháp lý, bao gồm Luật Cạnh tranh, Luật Phá sản, Luật Hải quan, Luật Thuế xuất nhập khẩu, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Doanh nghiệp… Ví dụ, Luật Đầu tư mới cấm không được yêu cầu các nhà đầu tư phải mua hoặc sử dụng sản phẩm và dịch vụ nội địa, không được bị bó buộc phải xuất khẩu một tỷ lệ hàng hoá nhất định, hoặc sản phẩm phải tuân theo tỷ lệ nội địa qui định. Các hoạt động hậu cần thương mại như bến cảng và hải quan cần phải cải thiện để hỗ trợ quá trình hội nhập. Phần lớn các bến cảng hiện nay đều quá tải, công tác bảo dưỡng và quản lý kém, cần sự tham gia của tư nhân nhiều hơn nữa trong việc huy động nguồn vốn để đẩy mạnh cạnh tranh và làm giảm giá thành. Ngành Hải quan bị đánh giá là kém hiệu quả và nhũng nhiễu. Quốc hội gần đây đã thông qua Luật Hải quan nhằm cải cách lĩnh vực này qua việc thay đổi quy trình làm việc, các biện pháp kiểm tra hành vi sai trái của cán bộ hải quan, và những qui định cho phép việc mở rộng hoạt động quản lý cảng cho tư nhân.

Vấn đề là vệ sinh an toàn thực phẩm và sở hữu trí tuệ không kém phần quan trọng trong giao thương quốc tế. Nâng cao tiêu chuẩn vệ sinh không những tăng cao hiệu suất kinh tế trong ngành xuất khẩu mà còn vì sức khỏe của người dân, rất phù hợp vào thời điểm này do các mặt hàng có giá trị cao như trái cây, rau quả, thịt và hải sản đã tăng đáng kể trong mười năm qua. Việc thực thi mạnh mẽ quyền sở hữu trí tuệ “vừa may mắn vừa không may” đối với các nước đang phát triển như Việt Nam. May mắn vì nó sẽ khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài và bảo vệ bản quyền sáng chế và nhãn hiệu các doanh nghiệp trong nước. Mặt khác, bảo vệ sở hữu trí tuệ sẽ làm cho việc sử dụng phần mềm trở nên đắt đỏ. Nhưng điều đáng quan ngại hơn là có thể làm giảm khả năng tiếp cận với các loại thuốc phổ thông có ảnh hưởng đến sức khoẻ của đại chúng mà thuốc kháng virus HIV/AIDS là một ví dụ.

Một mối quan ngại khác là cũng như Trung Quốc, Việt Nam có thể “bị ép chấp nhận qui chế kinh tế phi thị trường”. Phương pháp này “giảm đáng kể gánh nặng phải đi tìm bằng chứng” trong các vụ kiện phá giá, dẫn đến hệ quả Trung Quốc đã trở thành mục tiêu cho một phần năm số vụ kiện chống phá giá trên toàn thế giới. Những đòi hỏi ngày càng khắt khe hơn đối với thành viên mới, buộc họ phải nhượng bộ để đổi lại sự ủng hộ của các thành viên cũ trong việc xin gia nhập.

Vai trò các tỉnh địa phương và các cải cách trong nước

Quá trình phân cấp và trao ngày càng nhiều quyền quyết định cho chính quyền địa phương dẫn đến sự khác biệt lớn trong xu thế phát triển kinh tế. Vai trò của chính quyền cấp tỉnh trong lĩnh vực đất đai, thuế vụ và khuyến khích đầu tư rất quan trọng, từ việc phân vùng, chuyển đổi loại đất và định giá đất, đến phê duyệt các dự án đầu tư dưới 20 triệu đô la [1] và xây dựng các khu công nghiệp. Do cơ chế phân cấp và sự thiếu nhất quán và chồng chéo của các qui định và luật, khả năng lãnh đạo cấp tỉnh trong việc diễn giải và thực thi chính sách trở thành yếu tố chính yếu cho sự thành công của cuộc cải kinh tế địa phương. Mặt khác, chính sách phân quyền cũng dễ dẫn đến việc lạm quyền, nhất ở lĩnh vực đất đai như những vụ tai tiếng đã xảy ra tại các tỉnh Bạc Liêu, Kiên Giang, Khánh Hoà, thị xã Đồ Sơn và Phú Thọ.

Sự tương phản lớn lao của các chỉ số phát triển kinh tế giữa các tỉnh cận kề và có điều kiện phát triển tương tự ở mỗi miền (bảng 11.1) như GDP, tỷ lệ nghèo, số lượng doanh nghiệp, tích luỹ đầu tư đã cho thấy rõ tầm quan trọng của việc phân cấp và chất lượng quản lý. Ví dụ sản lượng công nghiệp ở Đà Nẵng cao hơn Huế gấp bảy lần và lượng vốn đầu tư nước ngoài ở Bình Dương cao hơn Long An cũng đến bảy lần.



Điều đáng lưu ý là qua cuộc điều tra trên, chính quyền của ba tỉnh có mức phát triển mạnh - Bình Dương, Đà Nẵng và Vĩnh Phúc - cũng được các doanh nghiệp đánh giá cao trong việc thực thi các chính sách khuyến khích tư nhân, cấp giấp phép nhanh và thông tin thông thoáng. Cuộc điều tra chỉ số cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của USAID và nhiều nghiên cứu khác đều cho thấy thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hà Nội và các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai dẫn đầu cả nước trên các chỉ số phát triển. Bên cạnh các biện pháp hỗ trợ các tỉnh nghèo trong việc hiện đại hoá qui trình lập kế hoạch và phân bổ ngân sách, các cuộc điều tra đánh giá như PCI [2] rất quan trọng cho việc khuyến khích cạnh tranh, thăng thưởng và ràng buộc trách nhiệm các cấp chính quyền tỉnh đối với các hoạt động kinh tế địa phương.

Những cải cách vòng thứ nhất đã cho phép hình thành các loại doanh nghiệp khác nhau và giảm nghèo. Cuộc cải cách vòng thứ hai cần thiết để đương đầu với các vấn đề ngày càng phức tạp khi nền kinh tế phát triển cao hơn và cánh cửa hội nhập rộng mở. Tham vấn là cơ chế quan trọng giúp tăng chất lượng các kế hoạch phát triển được áp dụng từ năm 2001 và mở rộng đáng kể trong quá trình lập kế hoạch kinh tế 2006-2010 thu thập ý kiến phản hồi từ các tổ chức phi chính phủ, các nhà tài trợ và các hiệp hội kinh doanh trong nước và nước ngoài.

Trên mặt trận kinh tế, Việt Nam cần phải tăng hiệu quả huy động vốn và quản lý tốt hơn tài sản nhà nước. Việc cải tổ huy động vốn bắt đầu với việc cải cách hệ thống ngân hàng. Thứ nhất, các NHTMNN phải hoạt động theo định hướng lợi nhuận, thoát khỏi áp lực ngầm từ chính quyền địa phương và NHNNVN duyệt cho vay phi thương mại hoặc phục vụ mục tiêu chính trị. NHNNVN cũng phải đặt lại vị trí thích đáng, không phải kiểm tra các giao dịch đơn lẻ với các yêu cầu pháp lý quá chi tiết mà phải tập trung vào chức năng giám sát và thực hiện chính sách tiền tệ. Đầu năm 2005, NHVNNN đã đưa ra đề án cải cách hệ thống ngân hàng đầy tham vọng: sẽ chuyển đổi NHVNNN thành một ngân hàng độc lập, tách biệt NHNNVN và NHTMNN, hoàn thành cổ phần hoá các NHTMVN từ 2006-2009 và giảm sở hữu nhà nước xuống mức qui định đã cam kết với WTO, và cải thiện nguồn nhân lực và công nghệ thông tin trong hoạt động ngân hàng. Thị trường chứng khoán chính thức và không chính thức rất cần thiết để bổ sung hệ thống ngân hàng. Các qui định cứng nhắc nhằm bảo đảm sự an toàn trong việc giao dịch trên thị trường chính thức đã ảnh hưởng tiêu cực đến lượng giao dịch cần phải thay thế bằng các hệ thống thông tin đáng tin cậy về chứng khoán và người môi giới. Tính minh bạch cũng cần phải được nâng cao đối với thị trường không chính thức OTC để buộc những người buôn bán và môi giới phải chịu trách nhiệm các hành vi sai trái.

Tiến trình cổ phần hoá DNNN cần phải sớm hoàn tất và việc quản lý các DNNN còn lại cần phải tách khỏi các bộ chủ quản để có thể đẩy mạnh cạnh tranh. Luật Doanh nghiệp mới qui định phải hoàn tất cổ phần hoá trong vòng bốn năm. Hiện có 2500 trong tổng số 4000 DNNN thuộc diện cổ phần hoá đã hoàn tất tiến trình này. Song ngay cả khi kế hoạch được thực hiện đúng theo kế hoạch, thì đến năm 2007 Việt Nam vẫn sẽ còn 1.800 DNNN với tổng số vốn lên đến 25% GDP. Điều đáng quan ngại là “chẳng có nhiều mô hình nhà nước kiểm soát phần lớn lượng vốn của nền kinh tế mà vẫn thành công”. Hiện nay có những thảo luận giảm số DNNN xuống còn con số 1000 doanh nghiệp hoặc chuyển đổi sang quản lý kiểu tư nhân, như cho phép công ty thuê giám đốc điều hành từ nước ngoài. Vinashin, công ty đóng tàu lớn nhất Việt Nam, rất năng động, là DNNN đầu tiên đã thuê giám đốc nước ngoài, và dự kiến sẽ có khoảng 100 doanh nghiệp có sở hữu nhà nước khác sẽ thực hiện trong thời gian tới.

Nếu tính bao gồm cả vốn huy động qua nợ dài hạn, tổng số vốn của các DNNN còn có thể còn cao hơn gấp đôi. Điều này cho thấy việc cải cách hiệu quả và tính minh bạch của cơ chế quản lý vốn của nhà nước rất quan trọng. Các cơ cấu thể chế mới nhằm cải thiện quản lý vốn ban hành gần đây bao gồm việc thành lập Tổng Công ty Đầu tư và Kinh doanh Vốn Nhà nước (SCIC) tháng 7/2005, là cơ quan duy nhất nắm quyền sở hữu vốn nhà nước của các DNNN được cổ phần hoá, đánh giá và giải thể những doanh nghiệp kém hiệu quả, và thành lập Công ty Mua bán Nợ và Tài sản tồn đọng của doanh nghiệp (DATC) hoạt động độc lập với NHTMVN. Việc chuyển quyền sở hữu ra khỏi các bộ ngành và cơ quan chính phủ sẽ loại bỏ các xung đột về quyền lợi giữa sở hữu và ra quyết định, nhưng đồng thời có cơ may nảy sinh các giao dịch không minh bạch vì liên quan đến những khoản tiền khổng lồ.

Những cải cách về mua sắm công, chiến lược chống tham nhũng và cải thiện hệ thống tư pháp sẽ là những bước quan trọng trong tiến trình phát triển và hội nhập. Việc xây dựng bản tin mua sắm điện tử nhằm tăng cường tính công khai và minh bạch của đấu thầu sắp hoàn thành và Luật mua sắm vừa được thông qua sẽ giúp củng cố khuôn khổ pháp lý còn rời rạc. Nhưng với số lượng các nhà cung cấp còn hạn chế, đặc biệt với các công trình dân dụng, thường mở ra khả năng thông đồng giữa các nhà thầu, chủ yếu là DNNN. Chiến lược chống tham nhũng không thể chỉ chú trọng đến trừng phạt mà phải bao gồm việc đơn giản hoá thủ tục, như cơ chế một cửa, phát triển giao dịch điện tử để giảm quyền lực tuỳ tiện của cán bộ nhà nước, và cần đặt mức phạt không quá cao để những người vi phạm ít có động cơ hối lộ. Luật chống tham nhũng thông qua cuối năm 2005 là một bước tiến khác, qui trách nhiệm cho thủ trưởng, giám sát tài sản của công chức nhà nước và họ hàng trực thuộc. Phương tiện thông tin đại chúng cũng có thể giúp khám phá các trường hợp tham nhũng nếu các nhà báo được bảo vệ. Về phương diện pháp lý, các phương thức đơn giản, dựa vào địa phương hay uy tín trong việc xác minh quyền sở hữu đất đai hay ký kết các hợp đồng không còn phù hợp trong nền kinh tế phát triển phức tạp hơn. Vì thế việc xây dựng một hệ thống tư pháp có khả năng diễn giải và thực thi hiệu quả pháp luật, giải quyết các tranh chấp thường xảy ra trong kinh doanh, như chiến lược cải cách tư pháp vừa được thông qua gần đây, là một yêu cầu rất cấp thiết.

Sau cùng, nâng cấp dịch vụ xã hội y tế, giáo dục và bảo hiểm xã hội phải là những ưu tiên hàng đầu của đợt cải cách vòng hai để những phúc lợi mang lại do sự phát triển sẽ được san sẻ rộng rãi trong đại chúng. Hệ thống y tế và giáo dục xây dựng vào thời kỳ bao cấp đã không còn phù hợp với với những yêu cầu mới của thời kỳ chuyển đổi sang kinh tế thị trường khi các chi phí xã hội này trở nên quá tốn kém đối với các thành phần kinh tế yếu kém. Về giáo dục, cần cải thiện tình trạng chất lượng giáo dục không đồng đều và gánh nặng chi phí chính thức và không chính thức (học thêm) qua việc phân bổ thêm ngân sách cho các vùng nghèo, vùng dân tộc thiểu số. Trong lĩnh vực y tế, Quỹ Chăm sóc Sức khỏe cho Người nghèo thành lập năm 2002 là một bước tiến đáng kể, song vẫn cần cải thiện về phương thức thanh toán và kết hợp với chương trình bảo hiểm y tế của các công ty để cung cấp dịch vụ y tế rộng rãi cho đại chúng. Hệ thống bảo hiểm xã hội được mở rộng đáng kể từ năm 1995 bao gồm cả khu vực tư, nhưng nói chung vẫn còn vẫn non yếu, cần cải cách những thiếu sót hiện nay như không khuyến khích thời gian đóng bảo hiểm lâu dài, báo cáo thu nhập đầu đủ hơn, qui định mức lương hưu gần hơn với chuẩn thống kê, và mở rộng diện bao phủ cho nông dân và lao động tự do. Theo thời gian, vai trò của các doanh nghiệp càng quan trọng trong việc cung cấp dịch vụ xã hội như y tế, giáo dục đại học, và kể cả các chương trình hưu trí.

Liệu Việt Nam có phải trả giá về mặt xã hội hay môi trường cho hội nhập và phát triển?

Xét từ khía cạnh chất lượng của phát triển kinh tế, ảnh hưởng bất lợi đối với các thành phần yếu kém trong xã hội và trình trạng ô nhiễm, suy thoái môi trường luôn là những quan tâm hàng đầu và câu hỏi lớn của các quốc gia đang phát triển khi bước vào con đường hội nhập và phát triển. Quá trình công nghiệp hoá lấn chiếm đất nông nghiệp, dẫn đến sự gia tăng tỷ lệ dân số các gia đình không có đất ở nông thôn từ 8% năm 1993 lên 12% năm 2004. Tuy nhiên, các cuộc điều tra cho thấy tình trạng mất đất không đi với nghèo đói, mà hầu như ngược lại, khi đời sống của ba phần tư dân số không có đất trong số tỷ lệ gia tăng nói trên đã được cải thiện. Vùng đất Tây Nguyên lại có những đặc điểm khác biệt: sự di dân ồ ạt và hình thành các lâm trường quốc doanh đã thành công trong việc nâng cao sản lượng nông nghiệp, nhưng đồng thời khiến người dân tộc mất dần đất đai, lui sâu vào rừng và trở thành thiểu số trên chính vùng đất của họ, tạo nên những căng thẳng xã hội, điển hình là cuộc biểu tình và bạo loạn năm 2001. Để giải quyết tình hình căng thẳng nay, chính phủ cam kết sẽ cấp đất và trợ cấp cho tất cả các hộ dân tộc thiểu số, và đến nay chương trình đã thực hiện được khoảng hai phần ba kế hoạch.

Hội nhập vào nền kinh tế thế giới có thể sẽ tạo thêm việc làm trong một số ngành đồng thời làm mất việc làm trong những ngành mà hoạt động sẽ bị thu hẹp lại. Một đánh giá về tác động của việc gia nhập WTO đã tập hợp hơn 20 nghiên cứu gần đây cho thấy hội nhập toàn cầu có thể dẫn đến việc mở rộng các ngành dệt may, thương mại và vận tải, xăng dầu và nhớt, và các sản phẩm giấy. Những ngành có thể thu hẹp gồm thiết bị và máy móc, thiết bị điện, dịch vụ cá nhân và phương tiện giao thông. Các nghiên cứu đã không cho thấy được thay đổi lớn nào về tình trạng nghèo đói hay bất bình đẳng bắt nguồn từ việc hội nhập kinh tế toàn cầu. Nhìn chung, kết quả các đánh giá trên chỉ cung cấp những chỉ số khái quát về các tác động có thể xảy ra, chứ không phải là những con số ước tính chính xác. Vì thế, cách đối phó với những tác động khó tiên đoán này giống như vấn đề của các nhà bảo hiểm, thay vì cố phỏng đoán xem mối nguy hại xảy ra ở đâu, sẽ ước tính thiệt hại chính xác khả năng và thời điểm xảy ra, và kịp thời hỗ trợ một cách thích đáng.

Phương án trợ cấp người lao động bị mất việc trong khu vực công, qua quỹ an sinh xã hội đã hoạt động khá hữu hiệu từ ba năm nay, hỗ trợ trên 100 ngàn lao động bị xếp vào diện dôi dư. Nhưng không thể nới rộng quỹ trợ cấp này cho khu vực tư vì sẽ quá tốn kém; thay vào đó, công nhân sẽ nhận trợ cấp thôi việc từ các doanh nghiệp. Phương án hỗ trợ các tỉnh nghèo qua việc tái phân phối ngân sách giữa các tỉnh đã có hiệu quả trong những năm gần đây, cần được tiếp tục đẩy mạnh vì phù hợp với quy tắc của WTO. Hơn thế nữa, tính tập trung theo địa lý cuả một số loại cây có thể dẫn đến những tác động tiêu cực tại một số vùng khi thị truờng giá cả trên thế giới dao động mạnh.

Tóm lại, với một thị trường lao động linh hoạt như Việt Nam, những tác động có thể nhìn thấy được dường như không lớn. Tuy nhiên điều này không đúng đối với những tác động vào môi trường: tiêu chuẩn môi trường thấp tại các quốc gia đang phát triển như Việt Nam thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào những ngành này để giảm chi phí sản xuất thấp nhất so với các nước khác. Một cuộc nghiên cứu đa ngành gần đây cho thấy các hoạt động kinh doanh gây ô nhiễm cao phát triển nhanh hơn các ngành ít gây ra ô nhiễm, đáng kể nhất phải kể đến ngành than, các ngành sản xuất phục vụ xuất khẩu như các làng nghề thủ công, ngành nuôi tôm, cá.


*


Trong phần mở đầu, chúng tôi đã trích lời ông Jonathan Pincus, chuyên gia kinh tế trưởng của Cơ quan Phát triển Liên hiệp quốc, khuyến cáo Việt Nam cần phải chuẩn bị để sẽ không trở thành Mexico thứ hai khi quốc gia này đã dành quá nhiều quyền ưu tiên cho công ty nước ngoài, tăng trưởng xuất khẩu đã không mang lại sự phát triển kinh tế vì hầu hết lợi nhuận đều lọt vào tay các nhà đầu tư nước ngoài. Một lần nữa chúng tôi xin mượn lời của ông Jonathan Pincus trong phần kết của bài viết. Ông Jonathan Pincus nhận định rằng việc gia nhập WTO là điều cần thiết, sẽ giúp Việt Nam cải thiện vị trí trong thương trường quốc tế, nhưng con đường trước mặt sẽ còn lắm chông gai. Ví dụ, về vấn đề cạnh tranh trên thị trường thuỷ sản và ngành dệt may, ông đã nhắc nhở: “Không là thành viên WTO, Việt Nam không có bất cứ quyền lực gì trong thị trường thuỷ sản và dệt may, nhưng khi là thành viên thì Việt Nam vẫn có vị trí yếu. WTO không hoàn hảo mà dường như là tổ chức của các nước giàu. Nếu anh là một nước giàu, anh sẽ được nhiều hơn nước nghèo. Dù sao là thành viên WTO vẫn tốt hơn ở ngoài. Việt Nam nên nghĩ rằng việc gia nhập WTO là bắt đầu một quá trình hơn là kết thúc. Sau khi đã là thành viên của câu lạc bộ đó, hãy cùng các nước đang phát triển khác đàm phán với các nước giàu hơn”.

(Các chữ viết tắt:

  • ABD - Ngân hàng Phát triển châu Á
  • CPIA – Đánh gía Môi trường thể chế và Chính sách Quốc Gia
  • CTCP - Công ty cổ phần
  • DNNN - Doanh nghiệp nhà nước
  • DTMSHGD - Điều tra mức sống hộ gia đình năm
  • IFC - Công ty Tài chánh Quốc tế (IFC)
  • FDI - Đầu tư trực tiếp nước ngoài
  • IMF -Quỹ Tiền tệ Quốc tế
  • NHNNVN - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
  • NHTMNN - Ngân hàng Thương mại Nhà nước
  • TCTK - Tổng cục Thống kê
  • UNDP - Chương trình Phát triển Liên hợp quốc
  • USAID - Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ
  • UNCTAD - Diễn đàn Thương mại và Phát triển Liên hợp quốc
  • VNCI - (Sáng kiến Cạnh tranh Viêt Nam). 2005. Các biện pháp khuyến khích và tài chính cho đầu tư trong nước ở Việt Nam: Có hiệu quả hay không? Tài liệu nghiên cứu chính sách sách số 2 của VNCI. VNCI, Hà Nội.
  • WB - Ngân hàng Thế giới
  • WTO - Tổ chức Thương mại Thế giới)

Tháng 5/2006

© 2006 talawas



[1]Theo Bộ KH-ĐT, cấp tỉnh và thành phố sẽ được cấp phép cho các dự án đầu tư nước ngoài đến 50 triệu đô la -
http://www.diza.org.vn/vn/news/31-03-2006/ThongTinCanBiet/381/

[2]Kết quả điều tra PCI năm 2006: Các tỉnh phía Nam chiếm ưu thế -
http://www.vneconomy.com.vn/vie/index.php?param=article&catid=05&id=d605b496aee696
Chúng tôi dự tính làm PCI trong ba năm đầu liên tiếp -
http://www.vneconomy.com.vn/vie/index.php?param=article&catid=01&id=7977e335790560