trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
  1 - 20 / 51 bài
  1 - 20 / 51 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tủ sách talawas
27.1.2005
Joseph E. Stiglitz
Chủ nghĩa xã hội đi về đâu?
16 kỳ
Nguyễn Quang A dịch
 1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11   12   13   14   15   16 
 
br>Các lí do khác để mô hình Arrow-Debreu không thể gồm đổi mới [1]

Trong thảo luận của chương này, tôi đã tập trung vào sự thật là thay đổi công nghệ nhất thiết gây ra tính không lồi, từ học qua làm hoặc từ các chi phí cố định lắng chìm gắn với các chi tiêu R&D những cái gây ra thiếu cạnh tranh, và rằng cạnh tranh phải là không hoàn hảo để các hãng nhận được lợi tức trên đầu tư của họ. Nhưng có các cách khác trong đó mô hình Arrow-Debreu không nhất quán một cách căn bản với cách thức trong đó thông tin, nói chung, và thay đổi công nghệ nói riêng, được mô hình hoá.

Khác biệt giữa sản xuất tri thức và sản xuất các mặt hàng khác

Sản xuất tri thức là khác sản xuất các mặt hàng bình thường theo nhiều cách quan trọng. Quan trọng là phải nhớ điều này bởi vì quá thường xuyên có xu hướng đi tối thiểu hoá những sự khác biệt này, để gợi ý rằng chúng ta có thể viết ra một hàm sản xuất cho tri thức, với các đầu vào tạo các đầu ra, và sau khi đã làm việc đó, chúng ta có thể xử lí sản xuất tri thức hệt như sản xuất bất kể mặt hàng khác nào - hệt như mô hình Arrow-Debreu đã mở rộng khung khổ tĩnh của phân tích cạnh tranh sang với thời gian, địa điểm, và rủi ro bằng cách đưa thêm các chỉ số trên và dưới vào các biến số- cũng thế những người chủ trương cách tiếp cận hàm sản xuất gợi ý rằng khung khổ có thể được mở rộng để bao gồm cả thay đổi công nghệ, bất luận nó xảy ra do học qua làm hoặc do phân bổ nguồn lực cho R&D. Nỗ lực nhằm mở rộng khung khổ tân cổ điển chuẩn sang cho các vấn đề đổi mới đã tỏ ra thậm chí lầm lạc hơn nỗ lực mở rộng nó sang cho các vấn đề bất trắc, nơi "tất cả" cái cần đã "chỉ là" sự tồn tại của một tập đầy đủ của các thị trường rủi ro.

Vượt quá các vấn đề cơ bản do tính không lồi gây ra, [2] có nhiều khó khăn chủ yếu khác, mà tôi thảo luận trong các đoạn sau: (1) sự thiếu vắng không thể tránh khỏi của một tập đầy đủ của các thị trường, (2) thiếu vắng thị trường thông tin, (3) các vấn đề gây ra bởi bản chất nhất thiết không đồng đều của đầu ra của R&D, và (4) bản chất hàng hoá công của tri thức.

Thiếu một tập đầy đủ của các thị trường

Vấn đề đầu tiên của các vấn đề này tôi đã chạm đến ở các chương trước: Không thể tồn tại một tập đầy đủ của các thị trường, và đặc biệt không thể tồn tại các thị trường cạnh tranh cho các mặt hàng chưa được nghĩ ra, chứ chẳng nói đến sáng chế ra. Một khi chúng ta thừa nhận tầm quan trọng của đổi mới, chúng ta thấy rõ rằng ý niệm về hệ thống giá hiện thân trong mô hình Arrow-Debreu đơn giản không thể cung cấp một mô tả thoả đáng cho các thị trường cạnh tranh. Quay lại chủ đề của chương trước, cạnh tranh gắn với R&D giống nhiều hơn với cạnh tranh thực tế, với các cuộc thi, hơn là đi chấp nhận ý niệm cạnh tranh hoàn hảo phản ánh trong các giả thiết chấp nhận giá của mô hình Arrow-Debreu. Nhưng có các lí do khác vì sao các thị trường thông tin không chắc tồn tại, hoặc khi chúng tồn tại, không chắc là cạnh tranh hoàn hảo, hoặc tỏ ra là bất kể thứ gì giống với các thị trường được hình dung trong mô hình Arrow-Debreu.

Thiếu tính đồng đều

Ở mức căn bản sản xuất tri thức khác sản xuất các mặt hàng qui ước những thứ có thể được mua bán trên các thị trường cạnh tranh: Mô hình chuẩn đòi hỏi các mặt hàng đồng đều. (Thiếu tính đồng đều, thí dụ, gây ra các vấn đề chọn lọc có hại được thảo luận ở các chương trước). Nhưng mỗi mẩu thông tin được sản xuất ra phải khác bất kể mẩu khác của thông tin được sản xuất ra (nếu khác đi thì nó không còn là tri thức mới).

Thông tin bất đối xứng và sự tồn tại của các thị trường

Thật vậy các thị trường tri thức là một trường hợp cực đoan của thị trường trong đó người mua và người bán có thông tin bất đối xứng, và các thị trường như vậy ứng xử theo các cách khác về chất lượng so với các thị trường với thông tin đối xứng. Người bán biết cái gì được bán (dù cho đôi khi người mua có thể am hiểu hơn về những ứng dụng mà thông tin có thể được đưa vào). Hiển nhiên người mua không biết mẩu thông tin mà người bán đang bán - nếu khác đi, thì chẳng phải mua nó. Vì trước khi được cho biết mẩu thông tin là gì, người mua không thể biết cái mà người bán nói- và vì sau khi được cho biết chính xác cái mà người bán phải bán, người mua chẳng có lí do gì để trả cho người bán, vì khi đó người mua đã nhận được nó rồi và có thể cho là (1) mình đã biết nó trước rồi hoặc (2) nếu đã biết cái mà người bán đang bán, thì sẽ chẳng trả gì cho nó - các thị trường thông tin/công nghệ không thể hoạt động theo cách mà các thị trường cạnh tranh cho các mặt hàng đồng đều hoạt động.

Đây hiển nhiên là một cách cực đoan để trình bày vấn đề: Các thị trường thông tin, dẫu không hoàn hảo, vẫn tồn tại. Trong thực tiễn, người bán đưa những chỉ dẫn nào đấy cho người mua về cái được bán nhưng không cung cấp mọi chi tiết. Các thị trường với danh tiếng/bán lặp lại tránh được một số khó khăn, nhưng, như đã lưu ý ở trên, các thị trường hoạt động trên cơ sở của các cơ chế danh tiếng là khác rõ rệt với các thị trường cạnh tranh chuẩn và, đặc biệt, khác với các loại thị trường mà mô hình Arrow-Debreu hoặc mô hình chủ nghĩa xã hội thị trường, mô tả tốt. [3]

Tri thức như một hàng hoá công cộng

Tri thức khác hàng hoá qui ước theo nhiều cách. Điều này làm cho ít có khả năng các thị trường tri thức tồn tại và chắc các thị trường như vậy, nếu tồn tại, khác rõ rệt với các thị trường hàng hoá qui ước. Có lẽ cách quan trọng nhất mà tri thức (thông tin) khác với hàng hoá qui ước là khó chiếm đoạt (mọi) lợi ích và thiếu sự mong muốn làm vậy. Trong một nghĩa, thông tin nói chung, và thay đổi công nghệ nói riêng, là các hàng hoá công cộng.

Các vấn đề chiếm hữu (Loại trừ)

Thông tin và thay đổi công nghệ, ở mức độ nào đó, có cả hai thuộc tính của các hàng hoá công cộng thuần tuý: Thứ nhất, thường không thể loại trừ những người khác khỏi hưởng thụ mọi lợi ích, và vì vậy không thể chiếm hữu một phần của lợi ích (tính chất bất khả loại trừ). Với sự can thiệp của chính phủ, thông qua hệ thống patent, một mức độ chiếm hữu nào đó là có thể. Khó khăn để loại trừ những người khác, và do đó để chiếm hữu lợi tức, đã được biết đến từ lâu. Những người dựng khung Hiến pháp Mĩ đã đưa một điều khoản cho patent, đặc biệt tạo các khuyến khích cho đổi mới mà thiếu các quyền sở hữu trí tuệ này thì sẽ bị giảm đi rất nhiều.

Các quyền sở hữu được ban cho patent, như đã được lưu ý, không tương ứng tốt với giá trị tăng thêm của đóng góp của nhà nghiên cứu, mà có thể liên quan nhiều hơn đến mức độ đổi mới ra sớm hơn, như kết quả của nỗ lực của nhà nghiên cứu, so với nếu khác đi. Nhưng ngoài đó ra, chúng chẳng bao giờ chiếm được- cũng chẳng bao giờ có thể chiếm được - mọi lợi ích xã hội gắn với sản xuất tri thức. Sự thực về một hãng thành công trong sản xuất thứ gì đó, truyền đạt cái trong nhiều trường hợp tỏ ra là mẩu thông tin cực kì giá trị: rằng thứ mà hãng ấy đang sản xuất là có thể sản xuất được. Thí dụ, biết rằng sợi tổng hợp có thể được sản xuất một cách có lợi về kinh tế, có một ảnh hưởng quan trọng đến lợi tức kì vọng của nghiên cứu tìm một sợi tổng hợp. Tổng quát hơn, hầu như luôn luôn có lan toả từ một đổi mới, cả trong nội bộ khu vực lẫn sang khu vực khác.

Không chỉ là lợi tức được chiếm hữu không hoàn hảo; cũng đúng là chi phí để chiếm hữu có thể rất cao, như câu chuyện về sáng chế máy tỉa hột bông của Eli Whitney, có lẽ là một trong những đổi mới quan trọng nhất ở thời ông, minh hoạ. Eli Whitney, với rất nhiều công sức, đã có khả năng thực thi quyền patent của mình, nhưng chi phí pháp lí - thấp hơn nhiều khi đó so với bây giờ- hầu như đã ngốn sạch lợi tức mà ông nhận được.

Tiêu thụ không kình địch

Các sáng chế có tính chất thứ hai của hàng hoá công cộng- đôi khi được nhắc đến như "tiêu thụ không kình địch". Không tốt đi loại trừ những người khác vì chi phí biên của người khác hưởng lợi là bằng không. Sự thực là tri thức có tính chất thứ hai này của hàng hoá công được biết thậm chí còn trước cả khái niệm hàng hoá công thuần tuý được đưa ra. Thomas Jeferson, viết gần như hai trăm năm trước, ví tri thức như ngọn nến, ngay cả khi nó thắp ngọn nến khác, không làm giảm cường độ ngọn lửa của nó.


Chủ nghĩa xã hội thị trường và đổi mới

Các đoạn trước đã giải thích không chỉ rằng mô hình Arrow-Debreu không bao hàm tiến bộ công nghệ nội sinh mà cũng giải thích vì sao khung khổ đó không thể được sửa đổi (ít nhất không thay đổi tinh thần cơ bản của mô hình) để bao hàm nó. Tôi đã mô tả các khuyến khích được tạo ra trong phạm vi nền kinh tế cho đổi mới, vì sao các khuyến khích đó nhìn chung là không hoàn hảo, và, như một kết quả, vì sao đã có sự thừa nhận là có quá ít chi tiêu cho R&D. Tôi cũng đã giải thích vì sao, trong các khu vực của nền kinh tế trong đó R&D là quan trọng, chắc có cạnh tranh không hoàn hảo trong thị trường sản phẩm.

Thoạt đầu, tất cả những điều này dường như củng cố lí lẽ cho chủ nghĩa xã hội thị trường. Đổi mới, như các dạng đầu tư khác, có thể nằm trực tiếp dưới sự kiểm soát của chính phủ. Chính phủ như vậy có thể sửa những khuyết tật thị trường hiển nhiên này. Thế nhưng, như đã gợi ý trước đây, sự thất bại của chủ nghĩa xã hội thị trường để đổi mới, trừ các lĩnh vực được lựa chọn, gợi ý rằng có vấn đề căn bản với "giải pháp" xã hội chủ nghĩa cho khuyết tật thị trường này.

Không hẳn là chính phủ không thể tổ chức và điều khiển R&D. Thành công của chính phủ Sôviết và Trung Quốc trong lĩnh vực nghiên cứu quân sự nhất định chắc gợi ý rằng nó có thể. Thực vậy, trong các chương trình nghiên cứu thành công nhất ở Phương Tây có những cái do chính phủ tổ chức: từ các chương trình nghiên cứu nông nghiệp, đã làm tăng năng suất đến vậy, không chỉ ở Hoa Kì, mà trên khắp thế giới, đến các chương trình vũ trụ; từ đề án Manhattan phát triển bom hạt nhân, đến chương trình bom thông minh mới đây, nhiều trong những tiến bộ quan trọng nhất đã xảy ra ở các phòng thí nghiệm của chính phủ hoặc do chính phủ tài trợ.

Sự thất bại hình như là thiếu các tín hiệu thị trường để hướng các nhà nghiên cứu chú ý vào những đổi mới làm giảm chi phí và cải thiện chất lượng sống. Khi có mục tiêu xã hội rõ - làm một bom hạt nhân trong một thời gian ngắn - các nguồn lực có thể được điều động và chỉ huy một cách hiệu quả. Nhưng nhiệm vụ khó khăn hơn nhiều về nghĩ ra các ý tưởng và, quan trọng như thế, đánh giá chúng xem ra vượt quá tầm của chính phủ.

Một phần lí do hẳn liên quan đến các khuyến khích quan liêu: Khi một cơ quan chính phủ thử đánh giá một máy bay Airbus, hoặc một kiến nghị vận tải siêu âm, không phải tiền riêng của các nhà quan liêu bị lâm nguy. Các đề án này kéo dài và có quá nhiều bất trắc gắn với thành công của chúng đến mức không có cách nào để phạt những người duyệt dự án vì những sai lầm tệ hại (hay để thưởng vì những quyết định tốt). Thực ra, các vấn đề tương tự nảy sinh ở các hãng lớn trong đó các nhà quản lí không có phần sở hữu lớn. Tuy nhiên, sự thật là chính tương lai của hãng là cái bị lâm nguy thay đổi cách mà các dự án được đánh giá: Khi tất cả mọi người trả tiền cho dự án thông qua thuế, thường cứ như thể là chẳng ai chịu chi phí cả. Các triển vọng về tác động "ngoại lai" và "lan toả" hiện ra to lớn, ngay cả khi đối mặt với triển vọng tổn thất lớn lao. Điều này có thể do vai trò của các nhóm lợi ích, những người có khuyến khích để biện hộ cho những tác động ngoại lai và lan toả này. Trong trường hợp dự án do một hãng tiến hành, các nhóm lợi ích này chẳng bao giờ có cơ hội có một chỗ quanh bàn: Chỉ có lợi nhuận trực tiếp mới là mối quan tâm.

Ngoài điều đó ra, có sai lầm căn bản trong phân loại giữa các quyết định đầu tư (kể cả R&D) và quyết định sản xuất được hình dung bởi chủ nghĩa xã hội thị trường. Chủ nghĩa xã hội thị trường được giả thuyết về nền kinh tế với thông tin/truyền thông do hệ thống giá tạo ra. Tất cả thông tin thoả đáng, giữa những người tiêu thụ và nhà sản xuất và giữa các nhà sản xuất, được truyền đạt qua hệ thống giá. Nhưng với thay đổi công nghệ, điều này đơn giản không phải vậy! Các hãng cần tiếp xúc với khách hàng của họ, bất luận là các nhà sản xuất khác hay người tiêu dùng cuối cùng, để biết khách hàng của họ có thể thích sản phẩm loại nào. Chính đây có lẽ phê phán kế hoạch hoá tập trung của Hayek trở nên xác đáng nhất. Về cơ bản không thể truyền đạt mọi thông tin thoả đáng lên cho một nhà lập kế hoạch trung ương. Thực ra không có lựa chọ nào khác ngoài dạng nào đó của phi tập trung hoá và một dạng phi tập trung hoá căn bản hơn nhiều so với mô hình chủ nghĩa xã hội thị trường hình dung.

Điều này dẫn chúng ta đến vấn đề rộng hơn của phi tập trung hoá, và vấn đề các mô hình tân cổ điển về cạnh tranh phản ánh chính xác đến mức nào những thế mạnh, và hạn chế của phi tập trung hoá. Đây là chủ đề của chương tiếp theo.


9. Tập trung hoá, phi tập trung hoá, các thị trường và chủ nghĩa xã hội thị trường

Các nền kinh tế thị trường được phi tập trung hoá: Các quyết định sản xuất xảy ra ở hàng triệu hãng, và các quyết định tiêu dùng xảy ra ở hàng triệu hộ gia đình. Không ai phải biết sở thích của mọi người tiêu dùng. Không ai phải biết khả năng sản xuất của tất cả các hãng. Đây là một ưu thế lớn lao của các nền kinh tế thị trường.

Khái niệm phi tập trung hoá, giống khái niệm cạnh tranh, có nhiều nghĩa, chỉ một số được phản ánh thoả đáng trong mô hình tân cổ điển chuẩn. Các nền kinh tế thị trường được phi tập trung hoá, nhưng bản chất của phi tập trung hoá- và những lợi thế xuất phát từ nó - chỉ được thâu tóm không hoàn hảo trong mô hình Arrow-Debreu. Lại lần nữa, để nhắc đến luận điểm của tôi, nếu giả như mô hình chuẩn phản ánh đúng bản chất và các lợi thế của phi tập trung hoá, thì chủ nghĩa xã hội thị trường có thể cung cấp một cách khả dĩ khác của phi tập trung hoá có thể thâu tóm mọi lợi thế của phi tập trung hoá thấy trong phạm vi thị trường.

Trong chương này tôi giải thích những hạn chế về các khái niệm truyền thống và trình bày một viễn cảnh rộng hơn về bản chất và những lợi thế của phi tập trung hoá.


Phi tập trung hoá trong mô hình Arrow-Debreu và dưới chủ nghĩa xã hội thị trường: Một giải thuật máy tính hữu hiệu khả dĩ

Chủ nghĩa xã hội thị trường đã thử thâu tóm một số lợi thế như các nền kinh tế thị trường. Nhà lập kế hoạch trung ương không phải có tất cả thông tin liên quan đến sở thích và công nghệ. Truyền thông giữa các "nhà lập kế hoạch" trung ương, các hãng, và các hộ gia đình được tiến hành qua cơ chế giá. Các "thông điệp" gửi đi là đơn giản: Giá cả được gửi đi, và lượng cầu và cung được gửi đáp lại.

Như tôi đã lưu ý ở chương 1, phi tập trung hoá trong bối cảnh này có một ý nghĩa rất hạn chế: Đó về cơ bản là một giải thuật hữu hiệu khả dĩ tính toán cân bằng của nền kinh tế. Nếu giả như đây là lợi thế chính của phi tập trung hoá, thì chủ nghĩa xã hội thị trường thực ra có phản ánh lợi thế này, ít nhất trong xác định các mức đầu ra hiện hành.

Các định lí căn bản của kinh tế học phúc lợi tạo các nền tảng lí thuyết cho lòng tin này vào phi tập trung hoá: Chúng chứng minh rằng nền kinh tế thị trường phi tập trung hoá sử dụng cơ chế giá không những có hiệu quả mà bất kể phân bổ có hiệu quả Pareto nào đều có thể đạt được bằng sử dụng cơ chế giá (với tái phân phối cả gói thích hợp). Trong chương 4, tôi nghi ngờ tính đúng đắn và tính tổng quát của những kết luận này khi có thông tin không hoàn hảo. Tôi đã chứng tỏ, thí dụ, mỗi khi thông tin là không hoàn hảo và các thị trường không đầy đủ, thì hành động của một cá nhân (hãng) gây ra các ảnh hưởng ngoại lai, hạn chế mức độ mà nền kinh tế có thể được phi tập trung hoá một cách hiệu quả. Quả thực các ảnh hưởng ngoại lai không chỉ phổ biến tràn lan, chúng không thể được sửa chữa bởi những can thiệp đơn giản của chính phủ. Hơn thế nữa tôi đã chỉ ra rằng giả thiết toán học then chốt về tính lồi cần thiết cho phi tập trung hoá, nhìn chung, không được thoả mãn trong các nền kinh tế nơi thông tin là không hoàn hảo và có thể thay đổi.

Cái mà mô hình Arrow-Debreu có thâu tóm được là nhận thức rằng (1) đáng mong mỏi có uỷ thác nào đó về ra quyết định và (2) những cá nhân liên quan đến ra quyết định chỉ có thông tin hạn chế. Trong khi mô hình Arrow-Debreu giả thiết khả năng vô hạn để xử lí và truyền thông tin, nó chứng minh rằng chỉ phải truyền thông tin hạn chế (thông tin truyền đạt bởi hệ thống giá).

Tôi lập luận trong chương này rằng có nhiều hơn nhiều đối với vấn đề phi tập trung hoá: Những lợi thế của phi tập trung hoá là lớn hơn, tuy những hạn chế cũng vậy. Thật vậy, trong chương 4, tôi gợi ý rằng định lí Greenwald-Stiglitz [4] có thể coi như định lí bất khả phi tập trung hoá cơ bản. Bất chấp điều này tôi tin rằng phi tập trung hoá là thiết yếu. Nhưng phân tích của tôi bắt đầu từ khía cạnh ngược với mô hình chuẩn, lập luận rằng phi tập trung hoá là có thể bởi vì chỉ cần thông tin hạn chế. Theo cách nhìn được phát triển ở đây, phi tập trung hoá có động cơ thúc đẩy là khả năng hạn chế của các cá nhân và hãng để xử lí và truyền thông tin.


Những ý nghĩa của phi tập trung hoá

Những thảo luận phổ thông hơn về tập trung hoá và phi tập trung hoá kéo theo một loạt những quan tâm rộng hơn. Phi tập trung hoá diễn tả sự uỷ thác quyền ra quyết định từ trung tâm của một tổ chức cho các đơn vị (và từ các đơn vị xuống các đơn vị con thành viên của nó).

Hai điểm cần được nêu ra: Thứ nhất, dù một tổ chức là phi tập trung hay tập trung không phải là một vấn đề đen-hay-trắng. Luôn có một mức độ phi tập trung nào đấy. Không trong tổ chức nào mọi quyết định có thể ra một cách tập trung, và mức độ tập trung hoá có thể khác nhau trong các vấn đề khác nhau. Như vậy một tổ chức có thể tập trung các quyết định tài chính nhưng có thể phi tập trung các quyết định marketing.

Coi nền kinh tế thị trường như một tổ chức, chúng ta thấy nó là một hỗn hợp: Nó bao gồm nhiều đơn vị (hãng) dường như độc lập, mỗi đơn vị có sự kiểm soát đáng kể về những quyết định riêng của mình. Theo nghĩa này nó là phi tập trung. Nhưng nhiều, có lẽ hầu hết các hãng áp dụng một mức độ tập trung hoá cao.

Thứ hai, có thể thậm chí không rõ mức mà bất kể quyết định cá biệt nào được phi tập trung. Các đơn vị con có thể được trao quyền để ra các quyết định nhất định, song nhà chức trách trung ương có thể nhất định đòi được tham vấn, hoặc giữ quyền can thiệp. Trong khi có thể rõ ai “nghỉ” thôi quyết định, người tham gia –và tham gia nghĩa là gì- ra quyết định thường là mơ hồ. Chúng ta có thể nhắc đến các tình huống khá phổ biến này trong tất cả các cơ cấu tổ chức, như sự cai quản được chia sẻ. Thay cho tập trung vào điều này, có lẽ là tình huống phổ biến nhất, các thảo luận có chiều hướng tập trung vào các trường hợp cực đoan khi nhà chức trách ra quyết định được phân định rõ ràng, hoặc các nhà chức trách trung ương giữ lại quyền ra quyết định, hoặc họ uỷ thác quyền đó cho các đơn vị con. Trong thảo luận tiếp theo chúng ta theo hình mẫu phổ biến, nhưng với nhấn mạnh đến những hạn chế của cách tiếp cận đó.

Một lần nữa, chúng ta thấy những khuyết tật của chủ nghĩa xã hội thị trường rất giống với các khuyết tật của hệ thuyết kinh tế thống trị. Trong cả hai, như tôi đã nói, phi tập trung hoá có nghĩa hẹp đặc biệt - khả năng uỷ thác các quyết định “sản xuất” cho các hãng riêng, được hướng dẫn bởi giá cả, và các quyết định “tiêu dùng” cho các hộ gia đình riêng, lại cũng được hướng dẫn bởi giá cả. Thực ra các quyết định mà mỗi (mô hình) đưa ra (như tôi lập luận ở trên) là tương đối đơn giản, và như thế vấn đề phi tập trung hoá không phải là rất chủ yếu.

Sự thất bại của mô hình chuẩn (và của mô hình chủ nghĩa xã hội thị trường dựa trên nó) để giải quyết các vấn đề chủ yếu của phi tập trung hoá phải được thấy rõ từ ban đầu: Vì ít hãng dùng hệ thống giá rộng rãi để phân bổ nguồn lực trong nội bộ hãng. Như tôi đã lưu ý, nhiều, có lẽ hầu hết các quyết định trong nội bộ hãng được đưa ra một cách tập trung. Hệt như Coase đã nhấn mạnh rằng lí thuyết chuẩn đã không đề cập vấn đề ranh giới của các hãng, tôi cũng lập luận rằng lí thuyết chuẩn đã không đề cập các giá trị tương đối của tập trung hoá đối với phi tập trung hoá. Lí thuyết Coase nhấn mạnh tầm quan trọng của các chi phí giao dịch để xác định ranh giới các hãng. Nhưng vấn đề về ranh giới các hãng không cùng một nghĩa với vấn đề tập trung hoá/phi tập trung hoá; vì các hãng có thể (và một số hãng có) tổ chức nội bộ ít nhiều theo cách phi tập trung. Các chi phí giao dịch rõ ràng đóng một vai trò liệu quyết định được đưa ra một cách tập trung hay phân tán, nhưng còn có nhiều hơn thế với tập trung hoá quyết định, như chúng ta sẽ thấy ngay.

Phân tích của chương này cố nhận ra những lợi thế và bất lợi của tập trung và phi tập trung hoá. Luận điểm chính của chương này là đơn giản: Sự tồn tại và tính phổ biến của các tác động ngoại lai có thể - khi nhà chức trách trung ương có khả năng vô tận để thu thập, xử lí, và phân phát thông tin- tạo một lí lẽ mạnh cho tập trung hoá. Nhưng khả năng của bất kể nhà chức trách trung ương nào để thu thập, xử lí, và phân phát thông tin là hạn chế. Những hạn chế này tạo cơ sở cho lí lẽ để phi tập trung hoá.

Chương chia làm sáu phần chính. Trong phần đầu, tôi cố hình thức hoá ý trong đó và các điều kiện mà dưới chúng việc ra quyết định phi tập trung, với thông tin không hoàn hảo, tạo ra các quyết định tốt hơn. Trong phần hai, tôi xem xét vài lợi thế kinh tế khác của phi tập trung hoá. Trong đoạn ba, tôi xem xét ngắn gọn mặt bên kia, những lợi thế của tập trung hoá. Trong đoạn bốn, tôi trình bày một nghịch lí bề ngoài, cái có thể gợi ý rằng nhìn chung, ra quyết định tập trung ưu việt hơn phi tập trung, và tôi lật tẩy nguỵ biện cơ bản trong “nghịch lí tập trung hoá”. Trong đoạn năm tôi hỏi, Vì sao khi các nền kinh tế đối mặt với khủng hoảng, chúng dường như rời bỏ sự tin cậy vào phi tập trung hoá, và thường phải viện đến các cơ cấu kiểm soát trực tiếp hơn? Trong đoạn cuối, tôi xem xét các lí do phi kinh tế căn bản cho phi tập trung hoá và một vài hệ luỵ xã hội rộng hơn.


Tính có thể sai của con người và cấu trúc của các tổ chức kinh tế

Hơn năm năm qua, Raaj Sah và tôi (xem Sah and Stiglitz 1985a, 1985b, 1986, 1987, 1988a, 1988b, 1991; Sah 1991; Stiglitz 1989d, 1989e, 1991a) đã khảo sát các hệ quả của các hình thức thiết kế tổ chức khác nhau đối với chất lượng ra quyết định của tổ chức. Phân tích của chúng tôi dựa vào ba nhận xét:

  1. Năng lực thu lượm, hấp thu, và xử lí thông tin của các cá nhân là hạn chế.

  2. Truyền thông tin là không đầy đủ và bị nhiễu. Tôi không thể, dùng ngôn ngữ máy tính hiện đại, để xả hết toàn bộ cái có trong đầu tôi sang cho bạn, và dù cho tôi cố thử, thì cái bạn nhận được chỉ trùng một cách không hoàn hảo với cái ở trong óc tôi. Thực vậy, trong bài giảng này, tôi chỉ có thể cho bạn những ám chỉ đại thể của cái có trong tâm trí tôi. (Bạn có thể thấy yên tâm, vì bạn có thể tự hỏi mình - chắc ở đây phải có nhiều hơn mức mà ông ta truyền đạt thành công. Câu trả lời là, có; không biết tôi có truyền đạt thành công không lại là chuyện khác).

  3. Như hệ quả, có khả năng là những người khác sẽ mắc sai lầm. Như câu tục ngữ “nhân vô thập toàn; sai lầm là chuyện thường của con người”. Càng trưởng thành, tôi càng ý thức được về tầm quan trọng của tính có thể sai của con người, ít nhất về những người khác.

Những cách tổ chức ra quyết định khác nhau biểu hiện những cách kết hợp khác nhau của những thông tin khác biệt và có thể sai của mỗi thành viên của tổ chức. Trong công trình này, chúng ta đối chiếu, đặc biệt, các hệ thống thứ bậc (hierarchy) và phi thứ bậc (polyarchy) [5] . Các hệ thống thứ bậc là các tổ chức trong đó sự chấp thuận (trong mô hình của chúng ta, chấp thuận một dự án) phải được thông qua một chuỗi những sự chấp thuận, còn trong các hệ thống phi thứ bậc, mỗi cá nhân (hay tổ chức con) có thể ra quyết định thực hiện một dự án. Hình 9.1 phác hoạ hai dạng tổ chức này. Chúng ta đối sánh hai dạng tổ chức này theo khía cạnh chi phí ra quyết định, xác suất của các dự án tồi (giá trị kì vọng của chúng là âm) được chấp nhận và xác suất của các dự án tốt (giá trị kì vọng của chúng là dương) bị từ chối. Các dạng tổ chức khác nhau khác biệt ở cả ba khía cạnh này.

Khá đơn giản để thấy có những khác biệt. Nếu cần hai chuẩn y để dự án có thể đi tiếp, xác suất để một dự án tồi được thông qua là thấp hơn, và xác suất để một dự án tốt bị từ chối cũng cao hơn. Trong khi xác suất của một loại lỗi giảm đi, thì xác suất của loại lỗi khác tăng lên, và chi phí của hai chuẩn y là hiển nhiên lớn hơn.

Những sự khác biệt này được phản ánh trong các lí lẽ phổ thông ủng hộ phi tập trung hoá: nó cho các cá nhân và các dự án cơ hội thứ hai. Nếu giả như chỉ có một tạp chí về toán kinh tế, thì nếu một bài báo không được biên tập của tạp chí đó cho là xứng đáng, thì thế là hết. Không có một cơ hội độc lập thứ hai. Khi có nhiều tạp chí, một bài báo bị một tạp chí từ chối vẫn còn một cơ hội được xem xét độc lập.


Hình 9.1
Sơ đồ biểu diễn các cơ cấu tổ chức lựa chọn khả dĩ – phi thứ bậc (trên) và thứ bậc (dưới). Mỗi tổ chức lấy từ một tập cho trước các dự án (gọi là “danh mục ban đầu”). Trong phi thứ bậc, hãng 1 sàng lọc một tập các dự án. Nếu nó chuẩn y một dự án, dự án được tiến hành (trở thành một phần của “danh mục cuối cùng”). Nếu nó từ chối một dự án, dự án quay lại danh mục ban đầu, và hãng 2 xem xét nó. Nếu hãng 2 chuẩn y, dự án được tiến hành. Nói cách khác, một dự án được tiến hành nếu hoặc hãng 1 hoặc hãng 2 chuẩn y. Trong tổ chức thứ bậc, đầu tiên cấp thấp (ở đây là “văn phòng 1”) sàng lọc các dự án trong danh mục ban đầu. Nếu nó thông qua, thì dự án được chuyển lên văn phòng 2. Nếu văn phòng 2 cũng chuẩn y, thì dự án được tiến hành (trở thành một phần của danh mục cuối cùng). Nói cách khác, dự án được tiến hành chỉ khi nếu cả hai văn phòng chuẩn y.


Những kết quả này có lẽ là hiển nhiên trong trường hợp xác suất lỗi (dự án tốt bị từ chối, hoặc dự án tồi được chuẩn y) là cố định, độc lập với dạng tổ chức, nhưng chúng cũng vẫn đúng cho trường hợp các tiêu chuẩn chấp nhận hoặc từ chối là nội sinh và đáp lại môi trường trong đó người ta ra quyết định. Biết rằng sẽ có một kiểm tra khác đối với sự phán xét chắc sẽ dẫn đến tiêu chuẩn chấp nhận thấp so với nếu người ra quyết định biết rằng anh ta hay chị ta là người ra quyết định duy nhất.

Ra quyết định mang tính thứ bậc (với nhiều người ra quyết định cho bất kể quyết định nào, với quyết định được chuyển từ một cấp lên cấp tiếp theo trong hệ thống thứ bậc) kéo theo chi phí cao hơn (tính đến nhiều người ra quyết định hơn) và chậm trễ. Vấn đề sau có thể được tránh - với cái giá phải trả là chi phí cao hơn nữa - bằng cách dùng các hội đồng. Một hội đồng gồm hai người, đỏi hỏi sự nhất trí để chấp thuận, là tương tự như một thứ bậc, nơi cả hai cấp phải chuẩn y dự án, nhưng người sau đòi hỏi cấp thứ hai chỉ xem xét các dự án đã được cấp đầu tiên thông qua.

Tổng quát hơn, một thứ bậc gồm N cá nhân, tất cả họ phải chuẩn y dự án, là giống như một hội đồng gồm N cá nhân, tất cả họ phải chuẩn y một dự án với hai sự khác biệt: Vì dự án phải được thông qua từ một cấp sang cấp tiếp theo, thời gian để ra quyết định là lớn hơn nhiều, nhưng trong một hội đồng tất cả N người phải nhận được thông tin cần thiết để tạo một ý kiến về tính hấp dẫn của dự án dự kiến tiến hành, trong khi trong một thứ bậc, ngay khi bất kể cấp nào từ chối dự án, thì không cần dùng thêm các nguồn lực để xem xét dự án nữa. Tương tự một phi thứ bậc gồm N cá nhân giống như một hội đồng gồm N người, trong đó chỉ một phiếu thuận là đủ để dự án được tiến hành; lại có sự đánh đổi giữa các nguồn lực dành cho sàng lọc dự án và sự chậm trễ. Một khi chúng ta coi các hệ thống thứ bậc và phi thứ bậc như hai trường hợp cực đoan của các hội đồng, rõ ràng là có thể có các trường hợp ở giữa, như một hội đồng gồm N người trong đó dự án được tiến hành nếu k hoặc nhiều người hơn chấp thuận, hệt vậy có thể có hỗn hợp của các thứ bậc và phi thứ bậc, như một phi thứ bậc trong đó bản thân mỗi đơn vị của phi thứ bậc lại là một thứ bậc.

Trong khi, như tôi đã nói, sự thật rằng các dạng tổ chức này hoạt động khác nhau là hiển nhiên, nhận diện ra các hoàn cảnh trong đó một dạng hay dạng khác hoạt động tốt hơn là nhiệm vụ tinh tế hơn nhiều. Khi Sah và tôi bắt đầu chương trình nghiên cứu của mình, chúng tôi đã có một thiên hướng để xác lập rằng, dưới các điều kiện “hợp lí” đa dạng rộng rãi, cơ cấu phi thứ bậc áp đảo thứ bậc. Toán học, tuy vậy, đã không xác nhận định kiến của chúng tôi, và khi nghĩ kĩ hơn, chúng tôi vui là tình hình lại như thế: Cái mà chúng ta thực quan sát được trong nền kinh tế là không phải thuần phi tập trung, mà là hỗn hợp của tập trung và phi tập trung hoá trong đó các hãng có thứ bậc tương tác với nhau một cách phi thứ bậc. Cái mà toán học đã thực xác minh là, hỗn hợp này có hiệu quả (nó không có nghĩa rằng đúng hỗn hợp mà chúng ta quan sát được là “tối ưu”).

Một trong những kết quả chính của chúng tôi là xác lập rằng với các tổ chức lớn, cơ cấu hỗn hợp, thí dụ, gồm các phi thứ bậc trong đó bản thân mỗi đơn vị là một thứ bậc, áp đảo cả hai hình thức cực đoan về tổ chức. [6]

Vấn đề với mô hình xã hội chủ nghĩa thị trường ở đây không phải là nó sai mà đơn giản là nó không đề cập các vấn đề chính về sản xuất và ra quyết định phải được tổ chức ra sao. Như thế nền kinh tế xã hội chủ nghĩa thị trường chẳng bao giờ đề cập vấn đề ranh giới của các hãng ở đâu, trong đó sản xuất được tổ chức theo thứ bậc, sử dụng hạn chế cơ chế giá.

Các tổ chức tự duy trì mãi

Các lí lẽ về ra quyết định tập trung và phi tập trung với các dự án, thậm chí với cường độ lớn hơn, lan sang quyết định liên quan đến những người chọn dự án. Có một tác động khuyếch đại: nếu các nhà ra quyết định có quyết định tồi về những người kế vị họ, thì điều đó không những có tác động xấu đến thành tích của tổ chức dưới triều đại của những người kế vị đó, mà bản thân những người kế vị đó có nhiều khả năng chọn những người kế vị bất tài. Như thế sự kém năng lực có thể tự duy trì mãi.


Các lí lẽ khác ủng hộ phi tập trung hoá

Có một số lí lẽ kinh tế khác ủng hộ phi tập trung hoá, mà bây giờ tôi quay ra xem xét.

Đa dạng hoá rủi ro

Ra quyết định phi tập trung hơn làm giảm sự biến động chất lượng của toàn thể tổ chức. Thí dụ, phân tích ở trên gợi ý rằng nếu cho nhà quản lí chóp bu nhiều quyền lực hơn, tức là, thẩm quyền lớn hơn để chỉ định những người kế vị (cả ở cấp cao và cấp thấp), nếu nhà quản lí đó tốt, thì năng lực kì vọng của tổ chức kế tiếp chắc là cao hơn. Nhưng, theo cùng cách, nếu người ra quyết định trong vị trí chủ chốt đó mà xấu, thì năng lực kì vọng của tổ chức kế tiếp chắc là thấp hơn. Phi tập trung hoá hơn biểu hiện một dạng của phân tán rủi ro. [7]

Trong thực tiễn, chúng ta thấy kết quả tai hại to lớn, cũng như hoạ hoằn tốt, từ nhà lãnh đạo mạnh: Những thất bại kinh tế to lớn của Mao – các lò cao sau vườn và biến đất thành thóc – kéo theo những cái giá không kể xiết; Stalin và Hitler phải được tính đến như những nhà lãnh đạo mạnh mà kết quả thuần âm của họ phải được kiểm tương phản với nhà lãnh đạo mạnh hoạ hoằn tốt, như Lee Kuan Yew ở Singapore. (Sự thật rằng những cái mất dường như vượt quá những cái được có thể không phải là ngẫu nhiên: Có một nguyên lí chung rằng các nhà lãnh đạo dường như thích lưu lại quá thời điểm mà kết quả thuần của họ là dương. [8] Điều này giải thích cho sự thật rằng giá trị của các hãng với các nhà lãnh đạo áp đảo dường như tăng lên khi họ về hưu).

Cạnh tranh

Một khía cạnh nữa của phi tập trung hoá là cạnh tranh: Ở các chương trước tôi đã thảo luận những lợi thế rõ rệt nảy sinh từ cạnh tranh. Nhưng nếu để có cạnh tranh, phải có ít nhất hai đơn vị tiến hành các hoạt động giống nhau. Những thảo luận trước đây đã nhấn mạnh tầm quan trọng của cạnh tranh trong tạo ra những khuyến khích thích hợp, đặc biệt trong các tình huống mà thông tin về sự khó khăn của nhiệm vụ có thể không có sẵn ngay hoặc không thể nhận được. Cạnh tranh cũng tạo cơ sở cho lựa chọn, cho xác định ai có lợi thế so sánh trong thực hiện một nhiệm vụ cụ thể.

Các chức năng này của cạnh tranh (và của phi tập trung hoá) không phải là những cái được nhận ra, nói chi đến nhấn mạnh, trong hệ thuyết Arrow-Debreu truyền thống, hoặc trong các mô hình chủ nghĩa xã hội thị trường được dẫn ra từ nó.

Thông tin được khu biệt

Các chương trước nhấn mạnh rằng các vấn đề thông tin nêu ra bởi nền kinh tế là phong phú hơn nhiều so với được mô hình chuẩn hình dung, mô hình chỉ tập trung vào sự khan hiếm. Tôi nhấn mạnh, thí dụ, đến số chiều rất lớn của không gian sản phẩm: Các hãng phải biết không chỉ phải sản xuất ra sao mà cả giao hàng khi nào và ở đâu. Hơn nữa có vô số đặc trưng mô tả bất kể mặt hàng nào, và nhà sản xuất phải thích nghi sản phẩm theo sở thích của người (tiêu) dùng. Thông tin này không được truyền đạt bởi giá (mặc dù, về nguyên tắc, có thể nếu giả như có một tập giá đầy đủ cho tất cả các mặt hàng; nhưng không có, và có lí do hợp lí của nó, như chúng ta đã thấy ở chương 5). Chẳng có cách nào để một nhà chức trách tập trung có thể thu thập, xử lí, và phân phát thông tin loại này.

Thử nghiệm

Lí lẽ thứ tư cho phi tập trung hoá là có lợi hơn để thử nghiệm. Mỗi trong các đơn vị phi tập trung có thể tiến hành “thử ngẫu nhiên”; kết quả của tất cả các thử ngẫu nhiên tạo ra thông tin có giá trị. Những kết quả tốt có thể được bắt chước, và ngay cả kết quả xấu có thể cho các bài học quan trọng.


Những lợi thế của tập trung hoá

Có hai khía cạnh quan trọng trong đó “tập trung hoá” được cho là có lợi thế lớn: điều phối và nội bộ hoá các tác động ngoại sinh.

Điều phối

Một trong những lợi thế được cho là của hệ thống giá, là khả năng của nó để điều phối các quyết định sản xuất của các hãng và quyết định tiêu dùng của các hộ gia đình. Nhưng, như đã lí luận ở trước, tập các vấn đề thông tin đối mặt với nền kinh tế là phong phú hơn nhiều so với cái được mô hình Arrow-Debreu quan tâm. Mô hình Arrow-Debreu đã không được thiết kế để giải đáp các vấn đề liên quan đến tính hiệu quả mà với nó nền kinh tế thu thập và phân phát thông tin mới, thí dụ, về những thay đổi trong môi trường kinh tế, và ít nhất trong các mô hình được lí tưởng hoá cao nào đó – các mô hình đơn giản nhất mà chúng ta đã có khả năng xây dựng- mô hình giá thuần tuý không theo được các tiêu chuẩn cao của “hiệu quả Pareto ràng buộc”.

Trong thực tiễn, khi các hãng lập các nhóm để thiết kế các sản phẩm mới, họ không dùng cơ chế giá, mặc dù “chi phí” thông tin hiển nhiên là quan trọng. Loại điều phối cần đến không thể dàn xếp qua cơ chế giá.

Những tác động ngoại sinh

Các tác động ngoại sinh là một trong những trường hợp cổ điển quan trọng của các khuyết tật thị trường. Một lời giải chuẩn cho các vấn đề này là “nội bộ hoá” các tác động ngoại sinh, tức là, tạo ra các tổ chức lớn để có thể tính đến tất cả những ảnh hưởng của các hành động khác nhau.

Nội bộ hoá tất nhiên không phải là giải pháp duy nhất: Đôi khi có thể giải quyết các tác động ngoại sinh trong phạm vi một khung khổ phi tập trung, thí dụ, bằng cách dùng thuế hiệu chỉnh Pigouve hoặc mặc cả kiểu Coase. Nhưng mỗi thứ này lại có các vấn đề của chúng: Các loại thuế Pigouve không thể đạt kết quả có hiệu lực khi có tính không lồi mà tính này lại phổ biến tràn lan khi có các tác động ngoại sinh (Starrett 1972) và, tổng quát hơn, khi có các vấn đề hiểm hoạ đạo đức. [9] Trong khi Coase khẳng định rằng các bên gây ra các tác động ngoại sinh cho nhau có thể đi đến một giải pháp hữu hiệu, với điều kiện các quyền sở hữu được xác định thích hợp, hiện nay chúng ta biết rằng điều đó không đúng nếu có thông tin không hoàn hảo, như về mức độ mà bất kể bên cụ thể nào bị ảnh hưởng bởi tác động ngoại sinh, điều chắc là đặc biệt thích đáng trong các tình huống nhóm lớn (xem, thí dụ, Farrel 1988).

Tuy nhiên, trong khi các giải pháp phi tập trung có thể không hoạt động, bằng chứng gợi ý rằng có thể nội bộ hoá (tập trung hoá) cũng không: Các vấn đề ô nhiễm trong phạm vi Đông Âu là thuộc loại tồi tệ nhất thế giới, và ở Hoa Kì các tổ chức công cộng là các tổ chức gây ô nhiễm tồi tệ nhất. Suy ngẫm một chút, sử dụng hệ thuyết lí thuyết thông tin của chúng tôi, phát hiện ra vì sao điều này lại không đáng ngạc nhiên mấy: Tổ chức có thể, về nguyên tắc, có lí do để “nội bộ hoá các tác động ngoại sinh” – tính đến mọi phân nhánh của hành động- nhưng trong nội bộ các tổ chức quyết định lại do các cá nhân đưa ra, và vấn đề là làm cho các cá nhân trong nội bộ tổ chức hành động theo cách nộ bộ hoá tác động ngoại sinh. Điều này buộc thiết kế các cơ cấu khuyến khích tính đầy đủ các hệ quả của hành động, đó là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn. Mặc dù lí thuyết khuyến khích hiện đại đã tạo ra những cách theo đó, về nguyên tắc, lương có thể trả cho bất kể cá nhân nào theo đầu ra của cả tổ chức (vì vậy làm cho cá nhân nội bộ hoá hoàn toàn mọi tác động ngoại sinh), các cơ cấu khuyến khích như vậy hầu như chẳng bao giờ được thực hiện, một phần bởi vì các rủi ro cực độ mà chúng áp lên bất kể cá nhân nào. [10]

Trong thực tiễn, lương của hầu hết các cá nhân chỉ gắn một cách yếu ớt với thành tích của toàn bộ tổ chức. Các cá nhân trong một tổ chức lớn đồng nhất hoá (dùng từ của Simon) mình với nhóm con nào đó, và khi họ không theo đuổi lợi ích cá nhân ích kỉ của họ, thì theo đuổi lợi ích của nhóm con (hoặc, như họ trình bày, lợi ích của tổ chức, nhưng được nhìn qua lăng kính của nhóm con). Phòng marketing lập luận rằng nó cần nhiều nguồn lực hơn; phòng nghiên cứu sẽ lí lẽ về nhu cầu của nó. Mỗi phòng tất nhiên sẽ biện hộ cho đòi hỏi của mình về nguồn lực bằng những ích lợi nó mang lại cho phòng khác, nhưng ít có bằng chứng rằng chúng kết hợp đủ mọi hệ quả. Điều này vài năm trước làm cho tôi hiểu một cách sinh động khi tôi làm tư vấn cho Bell Labs của AT&T. Nhóm nghiên cứu kinh tế học trong Bell Labs, bên cạnh việc tiến hành nghiên cứu cơ bản hạng nhất, đã đóng vai trò tư vấn quan trọng cho tổng hành dinh của AT&T. Nhưng, nhìn từ viễn cảnh của ban quản lí Bell Labs, điều này là một ảnh hưởng ngoại sinh, cái họ thấy chẳng cần tính đến mấy trong quyết định loại bỏ nhóm nghiên cứu này.

Quân đội cho một số thí dụ lí thú nhất về các nhóm theo đuổi lợi ích riêng làm hại đến lợi ích của toàn bộ tổ chức. Mỗi quân chủng - lục quân, không quân, và hải quân- nhìn các vấn đề quốc phòng theo viễn cảnh riêng của mình. Có những báo cáo đầy kịch tính về các hệ quả của điều này, ngay cả trong thời chiến.

Tất nhiên, nếu giả như dễ thiết kế các sơ đồ khuyến khích để khiến mỗi người tham gia nội bộ hoá tác động ngoại sinh, thì phi tập trung hoá có thể khả thi. Có ở đây một nghịch lí bề ngoài: Tập trung hoá chỉ giải quyết các vấn đề mà phi tập trung hoá không giải quyết được khi bản thân phi tập trung hoá lại có thể. Bây giờ tôi đến mặt bên kia của nghịch lí, và một giải pháp một phần.


Nghịch lí tập trung hoá cơ bản

Những thảo luận gần đây về vai trò thích hợp của chính phủ, và mức phi tập trung hoá hợp lí dường như đi vào một vòng loanh quanh. Trong khi một nhóm các nhà kinh tế học đã thử lí lẽ rằng bất kể cái gì chính phủ có thể làm, thì khu vực tư nhân cũng có thể làm nếu cho trước sự nhận ra đúng đắn cùng một tập của các ràng buộc (thông tin và chi phí giao dịch), có một tập khác của các kết quả lí lẽ rằng bất kể cái gì mà một hệ thống phi tập trung có thể làm, một chế độ tập trung cũng có thể làm. Kết quả đầu tiên, được một số giới nhất định ưa chuộng, đơn giản là sai, như chúng ta đã thấy ở chương 3. Các thị trường, nhìn chung, không có hiệu quả Pareto ràng buộc; có những can thiệp chính phủ làm tăng phúc lợi (ngay cả khi chúng ta hạn chế mạnh cái mà chính phủ có thể làm, và ngay cả nếu thừa nhận các hạn chế về thông tin của chính phủ), và chính phủ có các quyền (cưỡng chế và cấm) mà các tổ chức tư nhân không có.

Tầm quan trọng của cam kết

Nhưng bây giờ để tôi quay sang kết quả bù, rằng bất kể cái gì có thể đạt được trong phạm vi cơ chế phi tập trung có thể đạt được trong phạm vi khung khổ tập trung. Lí lẽ làm nền tảng cho điều này đơn giản: Một hệ thống tập trung có thể, về nguyên tắc, tổ chức mình theo cách phi tập trung sao cho, nếu có các lợi thế về phi tập trung, thì chúng có thể đạt được. Nhưng nhà chức trách tập trung có thể làm hơn (và thảo luận trước của chúng ta gợi ý rằng có thể đáng mong mỏi làm nhiều hơn, để can thiệp chống lại các tác động ngoại sinh hoặc để điều phối).

Nếu giả như lí lẽ này đúng, nó có thể gợi ý một lợi thế khác biệt cho các nền kinh tế không tự hạn chế mình với các cơ chế thị trường. Nhưng có một sai sót căn bản trong lập luận: Nó bỏ qua giá trị của cam kết. Các hệ thống tập trung (phi thị trường) có khó khăn tự cam kết. Thí dụ, nếu nhà chức trách tập trung có quyền can thiệp, nó thấy khó cam kết không can thiệp; nếu nó có thẩm quyền cho trợ cấp, nó thấy khó cam kết không cho trợ cấp, dưới những điều kiện nhất định. Các hệ thống thị trường có thể được hình dung như tạo thành các cam kết: Nếu, thí dụ, hãng không trả được tiền, nó phá sản. Có ràng buộc ngân sách cứng.

Lí lẽ này tất nhiên phóng đại sự khác biệt; chính phủ Mĩ đã có can thiệp cứu trợ Chrysler và Lockheed, và cứu trợ S&L. Nhưng “các qui tắc” chơi khác nhau kéo theo các chi phí giao dịch khác nhau với những can thiệp khác nhau. Các chi phí giao dịch này là cái tạo nên các cam kết. Và nhận ra các “cam kết” này ảnh hưởng đến ứng xử, cả ex ant lẫn ex post: Việc dự liệu trước khả năng can thiệp có thể có tác dụng thật sự.

Theo một nghĩa, giải thích nói trên làm cơ sở cho cách tiếp cận kiểm soát “thặng dư” đối với quyền sở hữu (Grossman and Hart 1988). Trước đó tôi đã nhận thấy các tổ chức lớn có cùng vấn đề, để thúc đẩy “nhân viên” của họ làm cái mà họ muốn, một hãng có thể thúc đẩy một hãng mà nó kinh doanh với làm cái mà nó muốn. Với một tập đủ của các hợp đồng, hai vấn đề này có thể là tương đương. Tức là, bằng cách trả tiền cho “nhân viên” tuỳ thuộc vào thành tích, sự phân biệt giữa “nhân viên” và “nhà thầu” trở thành hoàn toàn lẫn lộn. (Sự thực là sự khác biệt là yếu là hiển nhiên với các nhà chức trách thuế thử đánh thuế hai loại một cách khác nhau). Các hợp đồng là không đầy đủ. Trong các thị trường vốn các chủ sở hữu vốn cổ phần hưởng “lợi tức thặng dư”, tức là các khoản lợi tức không cam kết ở các nơi khác là của chủ sở hữu. Hợp đồng không cần nói họ nhận được gì: Cái mà họ nhận được là hiệu của lợi nhuận và cái mà những người khác nhận được như một quyền. Chủ của một tài sản nhận toàn bộ lợi tức thặng dư. Tâm của quyền sở hữu, Grossman và Hart cho là, tuy vậy, không phải là lợi tức thặng dư, mà là kiểm soát thặng dư: Tất cả các quyền để làm các việc cụ thể với tài sản trong các trạng thái tự nhiên khác nhau không được nêu trong hợp đồng đều thuộc về chủ sở hữu; tức là, nếu hợp đồng không buộc chủ sở hữu phải làm việc cụ thể nào đó, thì có thể làm bất cứ gì với tài sản.

Tất nhiên, trên thực tiễn, các cá nhân có thể có độ tuỳ ý khác nhau trên tài sản trong các tình huống khác nhau, tôi nghĩ Grossman và Hart khi đó sẽ nói là quyền sở hữu được chia sẻ. Đây không phải là cách dùng thông dụng của từ “quyền sở hữu”, nhưng điều này không cản trở chúng ta.

Như vậy, khi một hãng thôn tính một hãng khác, nó thu được lợi tức thặng dư. Sau khi đã đạt được lợi tức thặng dư, nó có lợi ích mạnh hơn (ít nhất khác đi) trong hãng. Nó thấy khó cam kết (và để cho bất kể cam kết nào là đáng tin) để không can thiệp. Biết điều này chắc chắn ảnh hưởng đến ứng xử ex ant và thực ra làm cho sự can thiệp có khả năng hơn so với nếu có thể làm cho người khác tin rằng nó thực ra sẽ không can thiệp.

Chính đây là nơi các chi phí giao dịch tạo ra sự khác biệt như vậy. Giả sử các cổ đông của hãng A và hãng B là như nhau. Khi đó đòi lợi tức thặng dư, thí dụ, của B cũng hệt vậy bất luận A mua B hay không. Vì cũng vẫn các cổ đông ấy sở hữu A và B, nếu giả như chúng ta ấu trĩ đến mức nói rằng “các cổ đông sở hữu công ti”, quyền sở hữu (và, theo nghĩa đó, quyền kiểm soát thặng dư) sẽ như nhau bất kể A mua B hay không. Nhưng sự khác biệt liệu A có mua B không: Nhà quản lí của A có thể can thiệp vào công việc của B dễ hơn. Nếu A không mua B, nhà quản lí của A, cho rằng B làm gì đó khác với lợi ích của các cổ đông, có thể thỉnh cầu trực tiếp với các cổ đông và thuyết phục họ can thiệp vào công việc của nhà quản lí B. Nhưng xác suất can thiệp chắc bị (và thực tế phải bị) ảnh hưởng nếu không phải đi theo con đường vòng vo này. Thay đổi chi phí can thiệp làm thay đổi ứng xử. Hình thức tổ chức là quan trọng.


Tập trung hoá và khủng hoảng

Có một khía cạnh bất thường của ứng xử trong nhiều xã hội hiện đại: Trong khi tuyên xưng trung thành với dân chủ, trong thời khủng hoảng họ lại đòi có một nhà lãnh đạo mạnh. Đối mặt với một cuộc khủng hoảng ma tuý, có đòi hỏi về một vua ma tuý. Trong thời chiến họ muốn chắc chắn có ai đó đứng đầu. Điều phi thường về các nền kinh tế phi tập trung là chẳng có ai đứng đầu, thế mà chúng hoạt động thật tuyệt vời. Trình bày theo cách khác [11] , có một cách nhìn phổ biến rằng các nền dân chủ -và các tổ chức phi thứ bậc- là tốt, là hay nếu bạn có thể đủ sức cho chúng, nhưng khi việc phải được tiến hành nhanh, như trong thời chiến hoặc trong một nước tiến hành phát triển nhanh, thì cần đến sự kiểm soát tập trung hơn.

Đúng là hầu hết các nước trong thời chiến đều dùng đến điều khiển tập trung hơn, nhưng không rõ liệu điều này là do tập trung hoá hiệu quả hơn khi ra các quyết định nhanh hoặc vì có một niềm tin sai vào tính hiệu quả của kiểm soát tập trung. Có lẽ có thể có cảm nhận sai về an toàn trong thời gian như vậy do biết rằng có ai đó điều khiển. Trong viễn cảnh này một sự giải thích cho thiên hướng điều khiển tập trung trong thời kì khẩn cấp có lẽ có thể tìm thấy ở Tâm lí học của Freud hơn ở phân tích kinh tế.

Thiên hướng viện dẫn đến kiểm soát tập trung dường như đặc biệt kì quặc, căn cứ vào nhận thức rộng rãi, khi khác, rằng các bộ máy chính phủ quan liêu là chậm trễ và phi hiệu quả. Vì sao một hình thức tổ chức xấu đến vậy ở thời kì bình thường lại đột nhiên trở thành thánh thiện? [12]

Cũng có vẻ kì quặc khi công trạng lớn đòi cho hệ thống giá là tính hiệu quả thông tin của nó. Khi thế giới không thay đổi nhiều, năng lực của một hệ thống trong xử lí thông tin không quan trọng đến thế; thậm chí việc xử lí thông tin phi hiệu quả vẫn có thể tạo ra một phân bổ nguồn lực có hiệu quả. Chính trong thời thay đổi là lúc chúng ta đòi hỏi các năng lực xử lí thông tin của hệ thống, và chính trong những thời kì như thế lại có nhiều xã hội đến vậy dường như từ bỏ hệ thống giá.

Thực ra có giá trị nào đó trong chủ nghĩa hoài nghi truyền thống về sử sử dụng các thị trường trong thời khủng hoảng. [13] Làm cơ sở cho lí lẽ này là quan sát rằng thời gian – thứ khan hiếm nhất trong các mặt hàng- thường không được phân bổ tốt trong các tổ chức. Loại giá mà chúng ta dùng để phân bổ các nguồn lực khan hiếm đơn giản không tồn tại cho phân bổ thời gian trong nội bộ một tổ chức. Điều này không có nghĩa rằng không có giá ngầm định cho thời gian: Tôi quan sát thấy các cuộc họp điển hình của bộ môn triết học là dài hơn của bộ môn kinh tế học. Tuy độ sâu của các vấn đề cần phải giải quyết có thể chịu trách nhiệm về sự khác biệt, tôi nghi rằng giá trị thời gian của những người dự họp mới cho lời giải thích thuyết phục hơn. (Một lần tôi đã kiến nghị với chủ nhiệm bộ môn tôi rằng mỗi chủ toạ của một uỷ ban hay bộ môn trong trường đại học được cấp một ngân sách thời gian, cũng như một ngân sách đôla. Một cuộc họp có thể được tiệu tập, nhưng chủ toạ sẽ trả cho thời gian của các cán bộ dự họp. Tôi cũng kiến nghị đặt một đồng hồ trên tường, với đơn vị là đôla, thay cho phút, để cho mỗi cán bộ dự họp cân nhắc liệu, thí dụ, một bài phát biểu năm phút tốn 1000$ của tổng thời gian được dùng. Chẳng phải nói, kiến nghị của tôi không được áp dụng).

Trước đây tôi đã lưu ý sự cách biệt quan trọng giữa các mục tiêu cá nhân và tổ chức: Hầu như chẳng có tổ chức nào có các sơ đồ khuyến khích thích hợp để cho hai thứ trùng nhau, hoặc gần thế. Một khía cạnh của việc này liên quan đến sử dụng thời gian trong một tổ chức. Vì thời gian của kẻ khác là một nguồn lực không được định giá, có xu hướng tự nhiên để tham khảo quá mức, hoặc để các nhà quản lí sử dụng các cuộc họp, không để ra quyết định hiệu quả, mà để “quảng bá” năng lực của họ. Nhiều nghiên cứu (thí dụ, Hannaway 1989) chứng tỏ rằng lượng thời gian mà các nhà quản lí dùng cho hội họp là rất lớn- trung bình, hầu như hai phần ba thời gian của nhà quản lí điển hình. Một mức độ tham vấn nào đó tất nhiên là cần thiết; “hai cái đầu là tốt hơn một”. Điều này thực là một hệ quả của định đề trước đây rằng khả năng thu thập và xử lí thông tin của cá nhân là hạn chế. Câu hỏi là, Hai - hay bốn - đầu tốt hơn một thế nào? Cải thiện về chất lượng ra quyết định có xứng đáng với chi phí? Vì các thị trường không tạo cách thích hợp để đánh giá hoặc điều phối các quyết định liên quan đến thời gian, cho nên có thể có lợi thế trong điều phối tập trung. Thí dụ, trong nhiều tình huống ra quyết định, cần đầu vào từ nhiều cá nhân. Tốn kém hơn để có thông tin sớm, và thông tin không được dùng nhanh giảm giá trị. Xác định tốc độ “tối ưu” của ra quyết định là một nhiệm vụ khó. Ta cân đối chi phí thêm để ra quyết định nhanh với giá trị có quyết định sớm. Không có giả định rằng thị trường ra quyết định “đúng” liên quan đến tốc độ ra quyết định. Thực vậy có lí do nào đó để tin rằng cân bằng thị trường không được điều phối có thể làm cho ra quyết định quá chậm. Trong các trường hợp mỗi người cần đầu vào của người khác, và nơi có phần thưởng không đủ cho thông tin “sớm”, mỗi người lo hơn về lãng phí do sự lỗi thời của thông tin được thu thập quá sớm so với lợi ích có được nhờ “giải phóng” tắc nghẽn. Các nhà quản lí chịu chi phí “nhân bản” thông tin thu thập trong trường hợp sau nhưng chia sẻ kém hoàn hảo hơn nhiều trong lợi ích mà tổ chức được hưởng trong các hoàn cảnh khi một “mẩu” thông tin cá biệt là chỗ tắc nghẽn. Trong thời chiến những khó khăn về điều phối quyết định trong một môi trường phi tập trung tăng lên (bởi vì có quá nhiều vấn đề mới phải giải quyết), và giá trị của ra quyết định nhanh được tăng cường. Như vậy cả độ lớn của thiên lệch thị trường và chi phí xã hội của tính phi hiệu quả này đều tăng lên.

Tuy nhiên, có các chi phí do việc từ bỏ các cơ chế thị trường, các chi phí có xu hướng tăng lên với thời gian. Điều này được qui một cách phổ biến cho khó khăn duy trì “nhiệt tình” trong tình huống khủng hoảng: Ban đầu người dân sẵn sàng hi sinh, nhưng cuối cùng tính tư lợi thắng cuộc. Còn thậm chí nhiều hơn thế: Hệ thống giá cung cấp thông tin quan trọng. Tôi đã lưu ý ở các chương trước, cạnh tranh (các cuộc đua) cung cấp cho chúng ta thông tin ra sao về sự khó khăn tương đối của công việc trong các hoàn cảnh thay đổi. Tổng quát hơn, các cơ chế thị trường cho chúng ta thông tin về “các chuẩn mực” thích hợp: một nhân viên bưu điện phải bán bao nhiêu tem trong một giờ? Các chuẩn mực được thiết lập theo cách này vẫn tiếp tục hoạt động ngay cả khi cơ chế thị trường “bị đình chỉ” trong thời gian khủng hoảng. Khi cơ chế thị trường bị đình chỉ trong thời gian dài, và khi các cơ chế phi thị trường được sử dụng, thì thông tin mà thị trường phải mang ngày càng trở nên lỗi thời. Các cơ chế phi thị trường có thể hoạt động trong một thời gian dài, sử dụng thông tin được cung cấp trong thời kì mà các thị trường đã hoạt động. Nhưng quan trọng là cập nhật thông tin này, và cuối cùng các thị trường phải được tái lập. Như vậy trong những hoàn cảnh nhất định có thể có ý nghĩa khi từ bỏ thị trường trong thời gian khủng hoảng. Làm vậy, tuy nhiên, không phải là từ chối các quá trình thị trường, đúng hơn là sự nhận ra sự bất hoàn hảo của các thị trường và sự công nhận là đối với một giai đoạn ngắn, một số lợi thế của các cơ chế thị trường- hoặc chí ít thông tin mà chúng cung cấp- có thể được kết hợp với các lợi thế của tập trung hoá.


Vượt ra ngoài kinh tế học

Thảo luận về tập trung/phi tập trung hoá đến đây đã chạm đến các vấn đề đa dạng, tập trung hẹp vào các mối quan tâm và động cơ kinh tế. Nhưng các vấn đề về tập trung hoá và phi tập trung hoá vượt quá những quan tâm kinh tế chuẩn mực này. Tôi muốn đề cập ngắn gọn đến hai trong số này.

Tham gia

Ít vấn đề đụng chạm đến chúng ta nhiều trong cuộc sống thường nhật như các vấn đề liên quan đến thiết kế tổ chức, hoặc cái mà Sah và tôi gọi là kiến trúc tổ chức. Ý thức kiểm soát cuộc sống riêng của chúng ta, khả năng phát huy hết năng lực của mình, ý thức về tính cá nhân của chúng ta, phần lớn có thể phụ thuộc vào mức độ tập trung hoá hoặc phi tập trung hoá trong xã hội chúng ta. Có cái gì đó làm mất tính người nếu chỉ là một chiếc đinh ốc trong cỗ máy quan liêu, và tương tự có cái gì đó đầy sinh lực nếu là một nghiệp chủ, đưa ra thị trường một sản phẩm mới dựa trên một ý niệm mới hoặc một sự thấu hiểu mới. Tỉ lệ các cá nhân trong nội bộ bất kể xã hội nào có một loại kinh nghiệm hay loại khác phụ thuộc rất nhiều vào tổ chức xã hội- một viễn cảnh hoàn toàn nằm ngoài tầm nhìn của hoặc mô hình Arrow-Debreu hoặc của chủ nghĩa xã hội thị trường.

Những hậu quả kinh tế

Trong khi phi tập trung hoá trong nhiều hoàn cảnh có thể có ảnh hưởng sâu sắc lên “chất lượng cuộc sống”, có một tác động phản hồi trực tiếp lên kết quả kinh tế. Tôi đã lưu ý trước đây rằng mô hình Arrow-Debreu bỏ qua tất cả các khía cạnh tế nhị của động cơ mà các nhà quản lí rất quan tâm. Trong nhiều bối cảnh mà các nhân viên có tiếng nói về bản chất công việc của họ, họ có thể làm việc cần cù hơn và hiệu quả hơn; có tăng hiệu quả. Trong giáo dục, các bậc cha mẹ chọn trường học chắc sẽ có vai trò tích cực để đảm bảo rằng các nhà quản lí và giáo viên tiến hành công việc giáo dục hiệu quả hơn. Những sự lựa chọn mà việc ra quyết định phi tập trung tạo ra những cam kết và sự lôi cuốn, là cái làm cho tổ chức có hiệu quả hơn. [14] (Không chỉ là các trường học hợp với sở thích của người tiêu dùng tốt hơn, như mô hình chuẩn gợi ý). Hiệu trưởng và thầy cô có quyền tự trị hơn với trường của họ, cũng theo cách đó, có thể là các nhà giáo dục hiệu quả hơn. Thí dụ, vì họ chọn sách giáo khoa hoặc chương trình, họ chắc có nhiều khuyến khích hơn để làm cho chúng “hoạt động”.

Tập trung hoá, phi tập trung hoá, và tự do

Chính các mối quan tâm chính trị này, cũng như lòng tin vào tầm quan trọng của cạnh tranh (ý niệm cạnh tranh rộng nêu ở chương 7 chứ không phải kết cấu hẹp tạo cơ sở cho mô hình chuẩn) gắn với phi tập trung hoá là cái cuối cùng tạo cơ sở cho lòng tin của chúng ta vào phi tập trung hoá.

Không nghi ngờ gì là phi tập trung hoá kinh tế, dân chủ chính trị, và quyền tự do có quan hệ họ hàng. Trên hết, chính nhận thức về mối quan hệ này đã tạo động cơ cho những người Đông Âu từ bỏ không chỉ chủ nghĩa xã hội tập trung mà cả chủ nghĩa xã hội thị trường nữa. Tuy có vẻ phi tập trung, các doanh nghiệp trong chủ nghĩa xã hội thị trường được sở hữu và kiểm soát bởi nhà nước, và sự kiểm soát này cho nhà nước những quyền lực to lớn, những quyền lực có thể, và thường, bị lạm dụng.

© 2005 talawas



[1]Về một thảo luận đầy đủ hơn về các vấn đề trình bày trong đoạn này, xem Stiglitz (1987b).
[2]Radner and Stiglitz (1984) đã chứng tỏ rằng có tính không lồi cơ bản gắn với lượng thông tin; chẳng bao giờ bõ để mua chỉ một chút thông tin, hoặc diễn đạt theo cách khác, ""Nếu dốt nát không phải là hạnh phúc, thì ít nhất là một tối ưu cục bộ".
[3]Trong một số mô hình quá đơn giản, có thể nghĩ ra các lời giải được xác định rõ cho vấn đề nghĩ ra các hợp đồng tương thích khuyến khích: Nếu có tri thức chung về lợi nhuận mà người mua sẽ có được khi không có đổi mới, người bán có thể chào một hợp đồng tạo ra lợi tức vượt hơn mức lợi nhuận đó, như thế người mua chẳng có gì để mất.
[4]Như tôi đã chỉ ra trong chương 6, các khoản đầu tư không được phân bổ đơn giản cho hãng hứa sẽ trả lãi suất cao nhất.
[5]Chưa tìm ra thuật ngữ Việt nào hay hơn tôi tạm dùng thứ bậc cho hiearchyphi thứ bậc cho polyarchy (lẽ ra là đa thứ bậc chứ!?), và dùng chúng một cách nhất quán (xem tiếp để hiểu rõ nghĩa). Các bạn đọc có chút kiến thức về kĩ thuật có thể liên tưởng đến mạch nối tiếpsong song, đến cổng AND và cổng OR, v.v.
[6]Trực giác đằng sau kết quả là đơn giản: Khi thứ bậc là dài, quá ít dự án vượt qua được mọi sự chấp thuận cần thiết. Theo một nghĩa nào đó có quá nhiều lỗi loại 1 (từ chối các dự án tốt) so sánh với số lỗi loại 2 (chấp nhận dự án tồi). Chia thứ bậc ra làm hai, và tạo một phi thứ bậc gồm hai thứ bậc đó, sẽ đi theo hướng lấy lại cân đối.
[7]Xem Sah and Stiglitz (1991).
[8]Những tiến bộ mới đây trong lí thuyết về option (quyền chọn) gợi ý rằng với các chi phí lắng chìm lớn của quá độ chuyển đổi, điều này có thể không phi lí như nó có vẻ. Xem Dixit (1992).
[9]Thí dụ, Arnott and Stiglitz (1990) cho thấy các giới hạn về mức độ mà thuế bảo hiểm có thể hiệu chỉnh vấn đề “bảo hiểm quá” khi có hiểm hoạ đạo đức (không có khả năng quan sát việc mua bảo hiểm của bất kể cá nhân nào).
[10]Những sơ đồ như vậy thường yêu cầu nhân viên phải trả một khoản cố định nhưng, đổi lại, được hưởng một khoản (tỉ lệ với) tổng giá trị đầu ra của tổ chức.
[11]Các đoạn tiếp sau dựa chủ yếu vào bài giảng NOG của tôi, được trình bày tại hội nghị hàng năm của Hội Kinh tế Áo, Vienna, 29-9-1988, sau đó được công bố trong Stiglitz (1989d)
[12]Tất nhiên một thế kỉ trước bộ máy quan liêu đã không là tâm điểm của sự nhục nhã (xem thảo luận của Weber). Chúng được hình dung để đại diện cho một sự uỷ thác kiểm soát bằng chế độ trọng dụng nhân tài (meritocracy), một sự cải thiện hơn chế độ quí tộc (aristocracy) và, đối với những ai ít tin vào các cơ chế thị trường, hơn giới thương gia.
[13]Trong bài giảng NOG của tôi (1989d), tôi thảo luận điểm này rộng hơn.
[14]Điểm này- và triển vọng chung hơn liên quan đến tầm quan trọng của phi tập trung hoá vì các lí do khác với các lí do được xem xét trong các mô hình kinh tế và thông tin chuẩn- được Hannaway (1989) nhấn mạnh. Như tôi đã chỉ ra trong chương 6, các khoản đầu tư không được phân bổ đơn giản cho hãng hứa sẽ trả lãi suất cao nhất.
 Trực giác đằng sau kết quả là đơn giản: Khi thứ bậc là dài, quá ít dự án vượt qua được mọi sự chấp thuận cần thiết. Theo một nghĩa nào đó có quá nhiều lỗi loại 1 (từ chối các dự án tốt) so sánh với số lỗi loại 2 (chấp nhận dự án tồi). Chia thứ bậc ra làm hai, và tạo một phi thứ bậc gồm hai thứ bậc đó, sẽ đi theo hướng lấy lại cân đối.
 Xem Sah and Stiglitz (1991).
 Những tiến bộ mới đây trong lí thuyết về option (quyền chọn) gợi ý rằng với các chi phí lắng chìm lớn của quá độ chuyển đổi, điều này có thể không phi lí như nó có vẻ. Xem Dixit (1992).
 Thí dụ, Arnott and Stiglitz (1990) cho thấy các giới hạn về mức độ mà thuế bảo hiểm có thể hiệu chỉnh vấn đề “bảo hiểm quá” khi có hiểm hoạ đạo đức (không có khả năng quan sát việc mua bảo hiểm của bất kể cá nhân nào).
 Những sơ đồ như vậy thường yêu cầu nhân viên phải trả một khoản cố định nhưng, đổi lại, được hưởng một khoản (tỉ lệ với) tổng giá trị đầu ra của tổ chức.
 Các đoạn tiếp sau dựa chủ yếu vào bài giảng NOG của tôi, được trình bày tại hội nghị hàng năm của Hội Kinh tế Áo, Vienna, 29-9-1988, sau đó được công bố trong Stiglitz (1989d)
 Tất nhiên một thế kỉ trước bộ máy quan liêu đã không là tâm điểm của sự nhục nhã (xem thảo luận của Weber). Chúng được hình dung để đại diện cho một sự uỷ thác kiểm soát bằng chế độ trọng dụng nhân tài (meritocracy), một sự cải thiện hơn chế độ quí tộc (aristocracy) và, đối với những ai ít tin vào các cơ chế thị trường, hơn giới thương gia.
 Trong bài giảng NOG của tôi (1989d), tôi thảo luận điểm này rộng hơn.
 Điểm này- và triển vọng chung hơn liên quan đến tầm quan trọng của phi tập trung hoá vì các lí do khác với các lí do được xem xét trong các mô hình kinh tế và thông tin chuẩn- được Hannaway (1989) nhấn mạnh.