© www.talawas.org     |     về trang chính
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Dịch thuật
4.5.2004
DÅ©ng VÅ©
Sơ lược về vấn đề dịch thuật
 1   2 
 
Là một trong những dạng sinh hoạt ngôn ngữ phức tạp, trước khi chính thức trở thành một bộ môn khoa học [1] , dịch thuật được hiểu là quá trình hoán chuyển chữ viết một văn bản từ ngôn ngữ gốc sang một ngôn ngữ khác (s.s. Koller, 1992:80).

Riêng tại Âu châu, sinh hoạt dịch thuật đã được biết đến từ khá lâu, ví dụ dịch Kinh Thánh. Martin Luther là người nổi tiếng về công việc này và cũng là người đã góp nhiều công lao phát triển lý thuyết dịch thuật tại đây (Stedje, 1999:123).

Vào khoảng đầu thập niên 60, để định nghĩa cũng như cắt nghĩa quá trình dịch, giới ngôn ngữ học đã tiến hành những cuộc nghiên cứu về dịch thuật tự động [2] . Một lý thuyết khoa học dịch thuật đã hình thành từ đó với tiền đề: mỗi từ của một ngôn ngữ có thể được diễn tả bằng một từ, một ngữ đoạn của một ngôn ngữ khác tương ứng một trăm phần trăm.

Suy nghĩ nặng tính cách ngôn ngữ học rằng dịch thuật chỉ đơn thuần là sự chuyển tải nội dung từ một ngôn ngữ gốc sang một ngôn ngữ dịch, cũng như việc coi trọng hình thức ngôn ngữ hơn nội dung chính là nguyên do khiến cho có nhiều văn bản không được lưu tâm đúng mức, cụ thể là những văn bản văn chương.

Nhận thức được giới hạn ấy, độc lập với dịch thuật văn chương, trong nội bộ dịch thuật khoa học đã xuất hiện một xu hướng mới: dịch thuật không còn được hiểu đơn giản là sự chuyển tải nội dung mà còn cả văn hóa. Sự đảm bảo tính giao lưu đã trở thành một điều kiện ắt có. Kết quả dịch thuật phải chứng minh được giá trị tương đương về tính giao lưu của văn bản gốc đối với văn bản dịch.

Xu hướng này có thể tìm thấy trong lý thuyết Skopos (Skopostheorie) đã được K. Reiß và H.-T. Vermeer giới thiệu vào những năm 80. Với phương châm "chủ điểm của mọi dịch thuật là mục đích của chúng", công việc dịch thuật phải hướng văn hóa đíchhướng người nhận (Kopetzki, 1996:105-111). Nó cho phép người dịch được tự do kiến tạo miễn đạt được hiệu quả của văn bản gốc. Lý tưởng nhất là một sản phẩm dịch thuật được người đọc đón nhận mà đến chính anh ta cũng không biết đó là một bản dịch.

Bên cạnh giới Skopos, giới khoa học văn chương cũng có lý thuyết dich thuật riêng. Trong khi giớì Skopos tìm cách xây dựng một bài bản chung cho mọi loại văn bản, thì giới khoa học văn chương đã chú tâm vào việc phân tích phong cách của bản gốc và bản dịch. Ðối với họ, kết quả dịch thuật là một sản phẩm của quá trình cảm nhận chủ quan. Thay vì dựa vào những quy tắc dịch có tính kỹ thuật chung hoặc những chuẩn tắc được định sẵn nhằm đánh giá tính khách quan của kết quả dịch thuật, thì tiền đề của nó là gắng làm sáng tỏ mọi điều kiện có liên quan đến mối quan hệ giữa bản gốc và bản dịch, cũng như giữa người dịch và người nhận. Ðối với họ, dịch là quá trình kiến tạo chủ quan; nó không có quy tắc chuẩn và cũng không muốn bị lệ thuộc vào những mô hình khoa học mà dịch thuật được hiểu như một sự mã hóa. Tuy vậy, tính tự do ấy không đồng nghĩa với tính tự do kiến tạo của phỏng dịch [3] .


Đòi hỏi của dịch thuật

Làm việc với dịch thuật, người dịch bao giờ cũng vừa là tác giả vừa không phải là tác giả, vừa là người nói vừa không phải là người nói; mọi diễn đạt vừa là của anh ta, vừa không phải của anh ta. Mặc dầu giữ hai vai trò độc lập, người dịch cũng không được độc lập mà bị ràng buộc vào tính độc lập của văn bản gốc để đảm bảo tính tương đương.

Tất nhiên bản dịch phải tương đương với bản gốc. Ðó là đòi hỏi của dịch thuật. Một bản dịch lý tưởng nhất là một bản dịch hoàn toàn tương đương với bản gốc từ nội dung cho tới hình thức. Song trong thực tế, rất khó thỏa mãn được yêu cầu này vì lý do: sự khác biệt giữa ngôn ngữ và ngôn ngữ. Cũng cùng một nội dung, nhiều khi ngôn ngữ này dùng từ ngữ, đặt câu thế này, ngôn ngữ kia lại dùng từ ngữ, đặt câu thế khác. Hoặc, cũng cùng một câu nhưng ý nghĩa lại khác nhau. Dẫu vậy, điều đòi hỏi căn bản của dịch thuật vẫn là làm sao diễn đạt được ý nghĩa của văn bản gốc một cách trung thực. Cụ thể là ít nhất người dịch phải thỏa hai điều kiện chính, một là nhuần nhuyễn ngôn ngữ gốc và ngôn ngữ dịch, hai là, tùy lĩnh vực, phải nắm được những hậu cảnh văn hóa, xã hội, lịch sử, khoa học kỹ thuật, ... và kể cả quan niệm thẩm mỹ trong nguyên tác.

Koller đề nghị người làm công việc dịch thuật nên lưu ý đến "5 tính tương đương" sau đây (s.s. Koller, 1992:216):

  1. Tương đương nghĩa hẹp (Denotative Äquivalenz)

    Nghĩa hẹp được hiểu là nghĩa chính về mặt từ vựng của một từ chưa bị người sử dụng biến đổi. Tính tương đương nghĩa hẹp đòi hỏi ý nghĩa từ vựng của hai văn bản phải tương đương bất kể ngôn ngữ. Có ít nhất 6 loại quan hệ tương đương:

    • Quan hệ 1:1 (1 ứng 1): Một từ tương đương với một từ.

      "vườn" (Việt) tương đương "garden" (Anh), "Garten" (Ðức)

    • Quan hệ 1:n (1 ứng n): Một từ tương đương với nhiều từ.

      "tự động" (Việt) tương đương "automatisch", "selbsttätig" (Ðức)

    • Quan hệ n:1 (n ứng 1): Nhiều từ tương đương với một từ.

      "hổ", "cọp" (Việt) tương đương "tiger" (Anh), "Tiger" (Ðức)

    • Quan hệ m:n (m ứng n): Nhiều từ tương đương với nhiều từ. Trong trường hợp này, một ngôn ngữ có thể có nhiều từ hoặc ít từ hơn ngôn ngữ kia.

      "mẹ", "má", "mạ" (Việt) tương đương "Mutter", "Mutti", "Mami" (Ðức)

    • Quan hệ 1:0 (1 ứng 0): Một ngôn ngữ có một hay nhiều từ mà ngôn ngữ kia không có.

      "bể dâu", "trống canh", "đồng bào" (Việt). Tiếng Ðức, tiếng Anh không có.

    • Quan hệ tương đương từng phần. Một ngôn ngữ có một từ gần nghĩa với một từ của ngôn ngữ kia.

      Những tiếng xưng hô của tiếng Việt như "anh", "em", "mày", "mi", "con", ... gần nghĩa với "Du" của tiếng Ðức, "Tu" của tiếng Pháp [4] . Hoặc "Onkel" của tiếng Đức gần nghĩa với "bác", "chú", "cậu" của tiếng Việt.


  2. Tương đương nghĩa rộng (Konnotative Äquivalenz)

    Nghĩa rộng được hiểu là ý nghĩa của một từ đã được mở rộng. Ý nghĩa thay đổi tùy người sử dụng và/hoặc ngữ cảnh, hoàn cảnh. Tính tương đương nghĩa rộng còn đòi hỏi sự lưu ý đến những từ được sử dụng như một ẩn dụ hoặc từ gần nghĩa (trong tiếng lóng, tiếng địa phương, ...).

    • Nghĩa rộng của "đầu" (Việt) là hiểu biết (có đầu óc), tương đương với "Kopf" (Ðức)
    • Nghĩa rộng của "tim" (Việt) là tấm lòng (có trái tim), tương đương với "Herz" (Ðức)


  3. Tương đương văn bản chuẩn (Textnormative Äquivalenz)

    Văn bản chuẩn được hiểu là những văn bản được lập thức (formulieren) một cách chuẩn xác (normativ) để được mọi người hiểu một cách thống nhất. Tiêu biểu là văn bản hiến pháp, văn bản luật, văn bản hành chính, văn bản hướng dẫn sử dụng, văn bản khoa học kỹ thuật, ...

    Văn bản chuẩn có tính hiển ngôn và độ chính xác cao. Ý nghĩa chính hoặc quan trọng được diễn tả bằng thuật ngữ hay từ chuyên môn. Cách đặt từ, câu cú có phong cách riêng. Phong cách viết chuyên luận khoa học khác phong cách viết hiến pháp, phong cách viết luật khác phong cách viết văn kiện hợp đồng, ...

    Tính tương đương văn bản chuẩn đòi hỏi bản dịch phải có độ chính xác cao hầu như tuyệt đối.

  4. Tương đương ngữ dụng (Pragmatische Äquivalenz)

    Để diễn tả một ý nghĩa, nhiều khi cách hành ngôn của hai ngôn ngữ không giống nhau và không thể dịch 1:1, tức dịch sát từng chữ một. Trong trường hợp này, người dịch phải theo cách hành ngôn của ngôn ngữ dịch. Ví dụ:

    "Good Morning, Mr. Hung" không thể dịch 1:1 sang tiếng Việt thành "Chào buổi sáng, ông Hùng" vì người Việt không có lối hành ngôn "chào buổi sáng", "chào buổi tối", ... giống người Tây phương. Ở đây chỉ có thể dịch thành "Chào ông Hùng".

    "What is your name?" không thể dịch 1:1 sang tiếng Việt thành "Tên anh là gì?". Người Việt không hỏi vậy mà là hỏi "Anh tên là gì?" theo nguyên tắc Ðề-Diễn (Theme-Rheme) [5] (Dũng Vũ 2003:36) hoặc "Anh tên gì?"

  5. Tương đương mỹ hình (Formal-ästhetische Äquivalenz)

    Tương đương mỹ hình được hiểu là tương tự về mặt thẩm mỹ trong việc tạo hình. Tính cách này có ý nghĩa đặc biệt đối với những tác phẩm văn chương. Từ vựng, cú pháp, văn phong, lối dàn dựng văn bản dịch phải được kiến tạo sao cho đạt được tác dụng thẩm mỹ tương tự văn bản gốc.

    Dịch văn chương cần nhiều cảm xúc, song không có nghĩa là tùy tiện. Trái lại, người dịch phải thật kỷ luật để tránh những kiến tạo thiếu kiểm soát, vụng về có thể làm cho bản dịch lệch ý bản gốc hoặc mất tính văn chương. Người dịch cần phân tích kỹ lưỡng tính tương đương theo nhiều phạm trù: niêm luật, biến thể, âm điệu, đặc biệt là phong cách diễn đạt dựa vào lối chơi chữ, ẩn dụ, từ vựng và cú pháp.

    "...
    Mais, vrai, j'ai trop pleuré. Les aubes sont navrantes,
    Toute lune est atroce et toul soleil amer.
    L'âcre amour m'a gonflé de torpeurs enivrantes.
    Oh ! que ma quille éclate ! Oh ! que j'aille à la mer !
    ..."
    (Le bateau ivre - Arthur Rimbaud, 1872)

    Thi đoạn trên là một phần được trích từ nguyên bản Le bateau ivre của Arthur Rimbaud. Mỗi thi đoạn như vậy gồm có bốn dòng và có vần. Bản dịch tiếng Ðức của Walther Küchler dưới đây cố giữ nguyên hình thức ấy:

    "...
    Ich hab zuviel geweint. Weh tun die Morgenhellen,
    Wahr, jeder Mond ist bös und jede Sonne Leid.
    Die bittre Liebe ließ zu starrem Rausch mich schwellen.
    Oh ! bräche doch mein Kiel ! O Meer, ich bin bereit !
    ..."
    (bản dịch tiếng Ðức: Das trunkene Schiff - Walther Küchler (1978))

    Khác với hình thức dịch của Küchler, bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Chí Trung [6] bên dưới thể hiện rõ tính tương đương mỹ hình. Vì lý do khó diễn tả ý nguyên tác trong bốn dòng, tác giả đã chọn một hình thức tạo hình tương tự: mỗi thi đoạn gồm sáu dòng. Ðể diễn tả vần, tác giả chọn thể thơ lục bát:

    "...
    Quả thật, ta khóc nhiều rồi.
    Bình minh bi thống. Mặt trời đắng cay,
    Mặt trăng tàn nhẫn. Tình này
    Tình khắc nghiệt cho ta say mê hồn
    Ván thuyền ôi hãy vỡ luôn !
    Ôi ! Cho ta mất vào nguồn biển sâu !
    ..."
    (bản dịch tiếng Việt: Con tàu say - Nguyễn Chí Trung (2000))

    Dù người dịch được tự do sáng tạo bằng một hình thức tương tự nhưng đôi lúc vẫn không tránh khỏi những trường hợp bất khả dịch, chẳng hạn như cách chơi chữ của bản gốc. Gặp trường hợp này, thay vì bỏ qua, người ta thường để nguyên những cụm từ nguyên gốc và bình luận, giải thích thêm ở phần chú thích (sẽ nói sau).

    Tóm lại, theo Koller, đó là 5 tính tương đương cần lưu ý trong dịch thuật. Một bản dịch càng đạt khi càng thỏa các tính tương đương ấy, đặc biệt là tính tương đương mỹ hình.



Vấn đề dịch thuật

"Ngôn ngữ bất đồng" là nguyên nhân chính của mọi vấn đề có liên quan đến dịch thuật. Có những vấn đề nội tại của ngôn ngữ, có những vấn đề phát sinh. Có những vấn đề khách quan, có những vấn đề chủ quan. Vấn đề tồn tại khắp nơi: trong thực hành (tỉnh lược, bổ sung, dịch tự do, ..), trong từ ngữ, thành ngữ (tên riêng, lối chơi chữ, ẩn dụ), trong ngữ pháp, cú pháp, ngữ nghĩa, dụng pháp, ...

  1. Tỉnh lược

    Tỉnh lược được hiểu là lược bỏ một từ, đoạn câu, câu của văn bản gốc vì một lý do nào đó trong quá trình dịch. Hành động này có thể dẫn đến hai kết quả: bản dịch hoặc mất thông tin cần thiết, hoặc mất thông tin không cần thiết.

    Mất thông tin cần thiết là hậu quả của việc dịch thiếu. Dịch thiếu có thể vì lý do kiểm duyệt, hoặc chủ ý dịch lướt, dịch tóm tắt, hoặc thiếu kiến thức ngôn ngữ.

    Ngược lại, lược bỏ những thông tin dư thừa, không thực dụng đối với ngôn ngữ dịch thì lại hữu lý. Câu người Anh nói "Good morning Mr. Bush" dịch sang tiếng Việt thành "Chào ông Bush" là hữu lý. Từ "morning" được lược bỏ vì người Việt không có lối hành ngôn "chào buổi sáng".

  2. Bổ sung

    Thường thì không có lý do gì để bổ sung vào bản dịch những ý tưởng không tồn tại trong bản gốc. (Chẳng hạn không thể dịch "Kiều" thành "Das Mädchen Kiêu" (Người con gái Kiều) theo cách dịch của Faber ở ví dụ bên dưới, bởi trong tựa đề "Kiều" không có cụm từ "người con gái") [7] . Bổ sung chỉ có ý nghĩa khi người dịch muốn lập câu cho đúng ngữ pháp ngôn ngữ dịch hoặc muốn làm rõ ý tác giả, ẩn dụ bằng cách ghi chú, giải thích (ở phần chú thích). Ví dụ:

    • Lập câu đúng ngữ pháp:

      Tiếng Anh (văn bản gốc): He has done his duty, as we have ours.
      Tiếng Việt (văn bản dịch): Hắn đã làm tròn bổn phận của hắn cũng như chúng ta đã làm tròn bổn phận của chúng ta.

      Mệnh đề sau của văn bản gốc được hiểu ngầm là "as we have done our duty". Hai phần tử "done""duty" bị lược bỏ, một dạng tỉnh lược (Ellipse) thường dùng trong tiếng Anh. Về mặt ngữ dụng, người Anh có thể hành ngôn như thế nhưng người Việt thì không. Không thể dịch văn bản tiếng Anh bên trên sang tiếng Việt thành "Hắn đã làm tròn bổn phận của hắn cũng như chúng ta đã của chúng ta" (= "as we have ours"). Bởi mệnh đề sau ("chúng ta đã của chúng ta") không đúng ngữ pháp tiếng Việt, nên mới cần được bổ sung bằng cụm từ "làm tròn bổn phận" : "cũng như chúng ta đã làm tròn bổn phận của chúng ta".

    • Ghi chú, giải thích:

      Tiếng Việt (văn bản gốc):

      "...
      Cung thương làu bậc ngũ âm
      Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
      Khúc nhà tay lựa nên xoang,
      Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân.
      ..."
      (Kiều - Nguyễn Du)

      Tiếng Ðức (văn bản dịch):

      "... Wer
      vermochte es wie sie,
      den Reigen der
      fünf Töne zu gestalten ?
      In ihren Händen blühte das
      Gitarrenspiel der Hô, erwachten neu
      die Lieder ferner Zeit.
      Wen rührten nicht
      die Klänge des Bac-Mênh !
      ..."
      (Das Mächen Kiêu - Faber (1964:16))


      Dịch giả chú thích:

      Gitarrenspiel der Hô - Anspiellung auf die Geschichte der Chiêu Quân, die mit ihrem herrlichen Gitarrenspiel die Hô begeisterte, bei denen sie als Geisel leben mußte.

      Bac-Mênh - ungerechtes Los. Damit ist besonders das Schicksal jener Frauen gemeint, die die Lebensumstände zwangen, ihren Körper zu verkaufen.

      Theo quan niệm của người trung thành với "nguyên tắc khả diễn", tiêu biểu là R.J. Searle, thì: Mọi thứ được ám chỉ đều có thể diễn tả được bằng ngôn ngữ. Xét về mặt lý thuyết, suy nghĩ này không sai. Chẳng hạn như có một từ tiếng Việt mà tiếng Ðức không có, người ta vẫn có thể diễn tả được ý nghĩa của nó bằng một câu, bằng nhiều câu, bằng biện pháp chú thích (như ví dụ bên trên). Song trong thực tế, không thể thay thế một từ nằm trong một bài thơ có luật (v.d. lục bát) bằng cách nhét một đống lời chú thích vào vị trí ấy.


  3. Dịch lệch ý

    Vấn đề dịch lệch ý rất thường xảy ra trong dịch thuật. Người đọc không thể nào thấy lỗi này nếu không có bản gốc để mà đối chiếu. Nguyên nhân của dịch lệch ý thường là:

    • thiếu thẩm năng ngôn ngữ. Ví dụ người dịch rất giỏi tiếng Việt (ngôn ngữ dịch) nhưng yếu tiếng Anh (ngôn ngữ gốc), hoặc ngược lại.
    • không nắm vững tư tưởng, tính văn hóa, xã hội, tôn giáo, lịch sử, ... của nguyên tác. Ví dụ, Allah là Chúa của tín đồ Hồi giáo nhưng thường được dịch sang tiếng Việt là thánh Allah.
    • thiếu kiến thức chuyên môn. Ví dụ nguyên bản là một chuyên luận nói về tin học, nhưng người dịch lại không có hoặc có rất ít kiến thức về lĩnh vực này, kể cả những kiến thức liên quan đến nó.
    • tái dịch một văn bản đã được dịch từ văn bản gốc. Ví dụ dịch lại một bản tiếng Anh đã được dịch từ nguyên bản tiếng Ðức. Hoặc dịch lại một từ tiếng Anh đã được dịch từ một từ tiếng Pháp.
    • thiếu cẩn thận, thiếu kiên nhẫn. Ví dụ dịch sai một từ vốn quen thuộc, hoặc thiếu kiên nhẫn tìm hiểu ý nghĩa thật của từ gốc.
    • thiên vị, xuyên tạc. Ví dụ cách dịch tiếng xưng hô ngoại ngữ sang tiếng Việt: "he" (tiếng Anh) được dịch thành "Người", "ngài", "ông ta", ... nếu nhân vật ấy được kính trọng, còn không, rất dễ bị dịch thành "nó", "hắn", ... Nét cá biệt của tiếng xưng hô trong ngôn ngữ (điển hình là tiếng Việt) cũng là một trong những vấn đề dịch thuật.
    • dịch tự do (xem bên dưới).


  4. Dịch tự do

    Dịch tự do là cách dịch không theo sát câu cú mà chỉ nắm ý văn bản gốc rồi hành ngôn theo ngôn ngữ dịch. Lợi điểm của cách dịch này là lời văn nghe tự nhiên hơn. Trái lại, nhược điểm của nó là vì được tự do, cho nên thường xảy ra hiện tượng biến tấu tùy tiện, quá đà, đặc biệt là đối với những văn bản mang tính tinh thần như triết học, thần học, văn chương. Nên nhớ, mỗi văn bản đều gắn chặt với mối tương quan văn hóa nhất định; người dịch cần tôn trọng điểm này của văn bản gốc. Thiếu kỷ luật, người dịch dễ làm hỏng tính tương đương mỹ hình, dễ làm lệch ý văn bản gốc; thậm chí công việc đang làm không còn có nghĩa là dịch nữa mà là phỏng tác, phỏng dịch.

  5. Ða nghĩa

    Ða nghĩa là một vấn đề lớn của dịch thuật. Đôi khi có một từ đa nghĩa trong bản gốc được hiểu theo nhiều nghĩa mà không thể diễn tả được hết bằng ngôn ngữ dịch.

    "Bà già đi chợ cầu Ðông,
    Hỏi thăm thày bói có chồng lợi chăng.
    Thày bói xem quẻ nói rằng,
    Lợi thì có lợi nhưng răng không còn."

    Chữ "lợi" trong bài ca dao trên có hai nghĩa: ích lợi và nướu răng. Có lẽ không có một thứ tiếng nào ngoài tiếng Việt có một từ chứa hai nghĩa ấy. Nếu vậy, muốn diễn tả đủ ý thì phải dùng đến hai từ, và vì thế mà bản dịch sẽ mất hay. Đây là một trường hợp mà giới trung thành với nguyên tắc khả diễn phải bó tay.

    Trong trường hợp này, nếu chấp nhận giải pháp dịch sát, người dịch phải kèm theo chú thích.

  6. Tên riêng

    Tên riêng được ví như một nhãn hiệu, một biểu tượng có nghĩa dành riêng cho một cá thể.

    Theo nguyên tắc tôn trọng biểu tượng cá nhân, không nên dịch tên riêng. Ví dụ, "Formel 1" là tên một giải đua xe quốc tế thường thấy báo chí quốc nội dịch sang tiếng Việt thành "Công thức 1". Nếu cái tên đã có nghĩa thì nó nên nói với người đọc bản dịch đúng cái nghĩa mà nó đã nói với người đọc bản gốc (Güttinger 1963:79). Do đó, thay vì dịch, chỉ nên ghi chú khi cần thiết.

    Ngoài ra, phiên âm tên riêng cũng là một điểm cần được cân nhắc kỹ lưỡng. Cách thức này chỉ hợp lý và cần thiết khi chữ viết của ngôn ngữ gốc và ngôn ngữ dịch không có cùng một hệ thống ký tự (v.d. tiếng Việt dùng hệ thống ký tự Latinh, tiếng Hoa dùng hệ thống ký tự Hán). Còn không, nên giữ đúng tên riêng của nguyên bản, không nên biến hóa tên riêng bằng cách phiên âm như "Goethe" thành "Gớt", "Karl Marx" thành "Các Mác", "Alexandre de Rhodes" thành "A-lếch-xăng Đờ Rốt" ... [8] .

  7. Chơi chữ

    Chơi chữ là một cách hành ngôn đặc thù của ngôn ngữ thơ. Hình thức này rất khó dịch hoặc không dịch được ngoài biện pháp cắt nghĩa. Hồ Xuân Hương là một ví dụ nổi tiếng về nghệ thuật chơi chữ của Việt Nam.

    • Nói lái

      "Ðang cơn nắng cực chửa mưa tè
      Rủ chị em ra tát nước khe."
      ...
      (Tát nước - Hồ Xuân Hương)

      Cụm từ nói lái được: "nắng cực".

    • Ðối

      "Da trắng vỗ bì bạch"

      Câu đối này rất khó dịch hoặc không thể dịch được sang một ngôn ngữ khác (Anh, Ðức, Pháp, ...)

    • Tượng thanh, tượng hình

      Tượng thanh, tượng hình là một trong những nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ trong văn chương. Rất khó dịch, nhất là cần có vần, có điệu. Một vài ví dụ:

      Tượng hình, sống động:

      "Bốn cột khen ai khéo khéo trồng
      Người thì lên đánh kẻ ngồi trông
      Trai đu gối hạc khom khom cật
      Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng.
      Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới,
      Hai hàng chân ngọc duỗi song song.
      Chơi xuân đã biết xuân chăng tá ?
      Cọc nhổ đi rồi lỗ bỏ không."

      (Ðánh đu - Hồ Xuân Hương)

      Tượng thanh lẫn tượng hình:

      "Thắp ngọn đèn lên thấy trắng phau
      Con cò mấp máy suốt đâm thâu
      Hai chân đạp xuống năng năng nhắc,
      Một suốt đâm ngang thích thích mau,
      Rộng hẹp nhỏ to vừa vặn cả,
      Ngắn dài khuôn khổ cũng như nhau."
      ...
      (Dệt cửi - Hồ Xuân Hương)

      Một cách tạo từ của Hồ Xuân Hương khiến dịch giả phải đầu hàng:

      "Trời đất sinh ra đá một chòm.
      Nứt ra đôi mảnh hỏm hòm hom.
      Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẽn,
      Luồng gió thông reo vỗ phập phòm.
      Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm,
      Con đường vô ngạn tối om om."
      ...
      (Hang cắc cớ - Hồ Xuân Hương)

      Các cụm từ không dịch được: "hỏm hòm hom", "toen hoẽn", "phập phòm".


  8. Ẩn dụ, thành ngữ

    Ẩn dụ là một phép dùng một đối tượng cụ thể có nghĩa đen ngầm ám chỉ một điều gì đó theo nghĩa bóng. Thành ngữ cũng có tính nói bóng gió tương tự. Ví dụ, người Ðức có lối diễn tả một cái gì đã "xưa rồi", "cũ rồi", "lỗi thời rồi" bằng cách nói "Schnee vom gestern" (dịch sát chữ thành "tuyết hôm qua"; ý muốn nói là tuyết cũ, đã vữa). Người Việt không có thành ngữ chứa ẩn dụ ấy. Ngược lại, những cách nói như "Tre già, măng mọc", "Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng", "Buôn phấn, bán hương", ... có lẽ chỉ có người Việt mới hiểu nổi.

    Ẩn dụ, thành ngữ thường mang tính địa phương, dân tộc; cho dù có dịch được nhưng chưa chắc người lạ đã hiểu được nghĩa ám chỉ, nếu không nhờ chú thích.

  9. Vần, thanh điệu

    Mỗi ngôn ngữ đều có vần song không hẳn đã là một ngôn ngữ thanh điệu (Tonsprache). Tiếng Việt là một ngôn ngữ thanh điệu tiêu biểu của vùng Ðông Á. Đối với loại ngôn ngữ này, thanh điệu là một trong những yếu tố quyết định chữ/tiếng [9] . Tiếng Việt có 6 thanh điệu được ký hiệu bằng dấu sắc, hỏi, huyền, ngã, nặng và không dấu. (V.d.: cộng 6 nét thanh điệu trên với chữ "ma" , ta sẽ được 6 chữ khác nhau: "má", "mả", "mà", "mã", "mạ", "ma"). Trong thơ có luật, thanh điệu còn được chia ra hai loại "bằng" và "trắc":

    "Trải qua một cuộc bể dâu,
    Những điều trông thấy mà đau đớn lòng."
    (Kiều - Nguyễn Du)

    Theo thi luật lục bát, tiếng thứ 6 ("dâu") của câu lục và tiếng thứ 6 ("đau") của câu bát bên trên có thanh bằng và cùng vần. Khó có thể dịch một bài thơ lục bát vừa đúng thanh điệu vừa đúng vần sang một ngôn ngữ phi thanh điệu như tiếng Anh, tiếng Ðức. Muốn dịch loại thơ này, có lẽ phải dùng đến lối kiến tạo tương đương mỹ hình.



© 2004 talawas



[1] Riêng tại Đức, Khoa học dịch thuật (Übersetzungswissenschaft) là một bộ môn khoa học quen thuộc được giảng dạy trong nhiều đại học như: Uni Saarland (www.uni-saarland.de), Uni Bonn (www.philfak.uni-bonn.de), Uni Leipzig (www.uni-leipzig.de), Uni Heidelberg (www.zuv.uni-heidelberg.de), Uni Berlin (www.hu-berlin.de), v.v.
[2] Dịch tự động (automatische Übersetzung) là một ứng dụng ngôn ngữ tự nhiên trong lĩnh vực trí thông minh nhân tạo (Künstliche Intelligenz, artificial intelligence).
[3]Phỏng dịch có tính cách vay mượn ý tưởng nguyên tác để làm thành một sản phẩm mới bằng một ngôn ngữ mới hơn là trung thành với ý tưởng nguyên tác. Kiến tạo trong phỏng dịch hoàn toàn mang tính chủ quan từ nội dung cho tới hình thức. Nó không lệ thuộc vào một bài bản, khoa học nhất định. Không có một thước đo nào xác định được giá trị nghệ thuật của sản phẩm phỏng dịch với tư cách như là một sản phẩm dịch thuật.
[4]„Du“, „Tu“ có tính trung hòa, chứ không hẳn là „mày“, „mi“ như tiếng Việt (thường được dịch như thế). Đặc điểm chung của tiếng xưng hô trong tiếng Việt là rất phong phú, tinh vi về mặt cá nhân, tôn ti và tinh thần giao tế, nhưng cũng chính vì đó mà thiếu tính trung hòa.
[5]Nhìn chung, trong ngôn ngữ Âu châu, hiện tượng chủ ngữ trong câu không tương ứng với vị từ (predicate) (động từ, tính từ) ít xảy ra hơn so với tiếng Việt. Ðối với người Việt, khi bắt đầu muốn diễn tả điều gì, họ sẽ nghĩ ngay đến một chủ thể. Nó có thể là một người gây ra hành động, tức một tác nhân (actor). Loại đối tượng này được gọi là chủ thể logic (logical subject). Hoặc nó cũng có thể là một chủ đề (theme). Loại đối tượng này được gọi là chủ thể tâm lý (psychological subject). Hoặc nó là chủ thể trong câu. Loại chủ thể này được gọi là chủ thể ngữ pháp (grammatical subject) hay chủ ngữ ngữ pháp (xem Halliday 1994:32). Có chủ thể rồi, người nói sẽ tìm cách diễn giải. Diễn giải không có gì khác hơn là thuyết minh, định nghĩa, miêu tả, giải thích, bổ sung ý nghĩa cho cái chủ thể muốn nói hoặc giới thiệu phần thông báo từ chủ thể ấy. Tạm gọi đây là nguyên tắc Ðề-Diễn (Theme-Rheme). Ví dụ:
Chủ thể tâm lý là nhân vật „anh“, tức chủ thể muốn nói. Trước nhất phải có đối tượng này. Kế tiếp, người nói sẽ kèm thêm một câu, mệnh đề, thành tố theo sau như một hình thức bổ nghĩa, nói thêm về đối tượng đó. „Tên“, „người“ là các chủ thể ngữ pháp.
Tương tự lý thuyết Đề-Diễn được Halliday giới thiệu là lý thuyết Đề-Thuyết của Cao Xuân Hạo (1998:420), (2000). Không rõ có phải hai lý thyết này là một hay không, vì không thấy Cao Xuân Hạo nhắc tới Halliday. Cả khái niệm chủ thể tâm lý cũng không thấy Cao Xuân Hạo đề cập đến.
[6]Nguyễn Chí Trung còn dịch một số tác phẩm thi ca thế giới sang tiếng Việt (Brot und Wein – Hölderlin, Faust I – Goethe, Die letzten Gedichten – Ernst Meister, ...). Anh được biết đến qua sinh hoạt dịch thuật của Goethe Institut, Hà Nội (99, 2000). Dr. Nguyễn Chí Trung hiện sống tại Stuttgart và làm việc chủ yếu về dịch thuật.
[7]Thực ra, chủ ý của tác giả là muốn cho độc giả Tây phương biết nhân vật Kiều là phái nữ. Tuy vậy, thay vì cho biết phái tính của Kiều ngay trong tựa đề thì ghi chú trong phần chú thích có lẽ vẫn là cách hay hơn.
[8]Phiên âm có thể giúp người đọc phát âm được một từ lạ, nhưng rất tai hại khi cách viết mặt chữ nguyên thủy bị biến hóa làm người đọc không thể tra cứu được. Hơn nữa, cách phát âm chưa hẳn đã đúng. Chắc chắn người Đức khi nghe một người Việt nói „Các Mác“ (Karl Marx, một tên riêng của Đức), họ sẽ không hiểu đó là cái gì.
[9] Đơn vị cú pháp nhỏ nhất (minimal syntax unit) trong ngôn ngữ Âu châu là từ, còn trong tiếng Việt là chữ/tiếng. Xét về mặt viết thì gọi là chữ, xét về mặt phát âm thì gọi là tiếng. Từ của tiếng Việt là sản phẩm của một (tổ hợp) chữ/tiếng..