Lâm Hoàng Mạnh – Buồn vui đời tỵ nạn (phần cuối)
17/11/2009 | 10:00 sáng | 9 Comments
Category: Đời sống
Thẻ: Người Việt ở Anh > Thuyền Nhân
(Xem kì 1, kì 2, kì 3, kỳ 4, kỳ 5, kỳ 6, kỳ 7, kỳ 8, kỳ 9, kỳ 10, và kỳ 11)
Quận C. tỵ nạn Việt Nam ít, ở rải rác, tôi lính mới nhập cư, chưa quen thông thổ, phải dành nhiều thời gian tìm hiểu. Ngày nào cũng vậy, làm về chỉ ngủ 5 tiếng, tôi và chú Th. đi vào Job Centre tìm việc làm mới, gặp gỡ người quen, tìm hiểu đời sống, cách kiếm tiền của người Việt.
Chợ trời Brixton có quầy bán đồ điện tử, giày dép, hàng trang sức rẻ tiền của người Việt. Chợ trời Deptford, Catford, East Street (Camberwell Green) cũng có quầy bán đồ điện tử, giày, y chang chợ Brixton. Sau nhiều năm cần cù kiếm sống, nay họ đã trở thành những ông chủ cửa hàng quần áo, chuỗi nhà hàng đồ khô, tiệm Nails, giàu có.
Một số làm trong xưởng may, đưa hàng, là (ủi) đồ, đóng khuy, vắt sổ, từ thân phận làm thuê, làm nhiều ăn ít, ky cóp, mở xưởng may. Năm 1987 trở đi, số lượng xưởng may do người Việt làm chủ bùng nổ ở Hackney, tới trăm xưởng. Từ năm 1993, nghề may London suy giảm, một số chuyển sang mở nhà hàng, tiểu siêu thị. Năm 1994 chính phủ Việt Nam mở cửa, có người nắm bắt được cơ hội, đem tiền về đầu tư mở xưởng may, liên kết với thân nhân buôn bán bất động sản, phất lên như diều.
Cô chú Th. có bạn từ thời ở Hà Nội, nay định cư ở Woolwich, may gia công tại nhà, vợ tôi theo cô L. đến xem và học cách may. Nhà tôi bảo, máy to lắm, chạy điện, mô-tơ to đùng, hơn bắp chân, khác chiếc Singer đạp chân, khẽ ấn vào bàn đạp, động cơ rít lên, vải dưới chân vịt chạy như điên. Muốn nâng chân vịt, ngay sát đầu gối có cần, gạt nhẹ, chân vịt nâng lên nâng xuống dễ dàng. Bạn cô L. may giỏi lắm, không biết bao giờ mới may được như thế. Cô L. bảo, chị còn biết may sơ sơ từ hồi ở Việt Nam, chứ em chưa may vá mới khó chứ.
Nhà tôi biết may chút đỉnh. Từ năm 1977, đời sống ở miền Bắc mỗi ngày một tồi tệ, lương không tăng, giá cả các mặt hàng tiêu dùng tăng chóng mặt, nghèo lại càng nghèo thêm. Giá 1 kg thịt lợn (heo) theo tem phiếu 2 đồng 7 hào/kg, chợ đen 22 đồng/kg; gạo mua chui 20 đồng/10 kg, trong khi đó mua theo sổ có 4 đồng/10 kg. Đời sống siêu điêu, ai cũng tìm nghề phụ, kiếm tiền bằng mồ hôi và sức lao động của chính mình. Chúng tôi thời ấy vẫn còn giữ được y đức, chưa có 1001 kiểu trấn lột, móc túi bệnh nhân một cách trơ trẽn, khốn nạn như ngày nay.
Thị xã tỉnh tôi thời ấy có 4 nghề kiếm tiền:
1. Vào rừng chặt gỗ, bương, nứa, cây chit (làm chổi quét), kiếm củi…
2. Trồng rau, nuôi lợn.
3. Đan cót.
4. Cạo nứa.
Chủ nhật, đàn ông, thanh niên vào rừng như chảy hội. Đàn bà ở nhà lột cật nứa, bện chổi chit. Trẻ con đan cót. Ngày thường, hết giờ làm việc, cơm xong cả nhà làm cật lực cho đến khuya. Bốn nghề thật vất vả, nhưng vào rừng chặt gỗ, cạo tinh nứa, theo tôi, khốn khổ nhất.
Nứa tươi, đặt nằm trên hàng cọc, dao thật sắc, cạo hết tinh, sau đó cưa từng dóng, chẻ đều 5 cm, phơ khô, không đều, bị loại, hoặc xuống loại 2. Cửa hàng ngoại thương thu mua theo ki-lô, xuất sang Nhật. Nhật mua về làm gì, chịu, không biết. Tiếng dao cạo vào tinh nứa, két két, ghê tai, sợ lắm, răng như muốn rụng. Đàn ông phải khỏe, dai sức mới làm nổi nghề này. Người ngả về phía trước, hai tay cầm lưỡi dao nghiêng 35-40 độ, kéo cật lực về phía sau, tinh nứa mới bong ra từng phoi xanh xanh cuộn tròn rơi xuống đất. Giống hệt anh thợ bào gỗ. Mùa hè, may-ô quần đùi, “của quý” trong quần các bố cứ lắc lư, lên xuống, ngang dọc theo nhịp kéo dao. Có anh bác sĩ, gia đình ở quê, lương gửi về nuôi vợ con, cũng tham gia hội cạo nứa. Trông thấy anh cạo, có người đùa, phong chức trưởng khoa Đầu Gật Gù, Dái Lắc Lư.
Bốn nghề trên, vợ chồng tôi đầu hàng, nhưng không thể không tham gia trong đội quân kiếm nghề phụ, thêm rau mắm nuôi đàn con.
Tôi quen một anh thợ may Hàng Trống, cựu lính xưởng may 10 Châu Quỳ, Hà Nội, bị bệnh dạ dày kinh niên, xuất ngũ, mở tiệm may ở thị xã. Một hôm anh đến chơi, vợ tôi phàn nàn đời sống khó khăn, anh bảo, cô chú mua máy khâu đi, anh dạy chú cắt, chị dạy cô may, kiếm thêm nuôi tụi trẻ. Mừng quá, tôi lùng mua máy khâu, gặp ai cũng hỏi. Có ông bệnh nhân, bảo, ở nông trường C. có người vừa mang chiếc Singer trong Nam ra, muốn bán. Đại hạn gặp mưa rào. Chủ nhật, tôi và anh thợ may T. đến xem. Xem xong, anh bảo, được đấy, mua 1200 đồng. Thế là làm thợ may nghiệp dư, máy kê nhà anh T. Vợ tôi nghỉ phép, 2 tuần, sáng cơm nước xong, đến nhà anh, học đến chiều, miễn phí. Hết kỳ nghỉ, vợ tôi cũng biết cách may áo sơ-mi nữ, chưa biết cắt. Đến lượt tôi học cắt. Có ông S. thợ may của nông trường đã về hưu, ra khám bệnh, vào chơi, biết vợ tôi học may, tôi đang tìm thày học cắt, bảo, vào ông, ở đấy nhiều hàng, tha hồ tập sự. Lần này đến lượt tôi “lên núi tầm sư học nghề phó may”.
Tôi nghỉ phép, ăn ở nhà ông 2 tuần, học 2 bài: áo sơ-mi nam nữ và quần nam. Giỏi toán từ thời phổ thông, ông giảng công thức đo cắt, tôi hiểu ngay, lại khéo tay, sau vài hôm, tôi cắt đẹp, rất vừa ý các cô gái trẻ. Bác S. khen tôi hết lời. Bác còn chỉ cho tôi những bí quyết nhà nghề và dạy tôi may quần nam.
Vợ chồng tôi thành phó may nghiệp dư, sau vài tháng, khách đông, trả hàng không kịp Tối tối, ngày chủ nhật, học sinh trường Trung cấp Y tế, thanh niên thị xã kéo nhau đến, vì tôi tính giá mềm, rẻ từ 3 đến 5 hào, may cẩn thận, lại không “lây ống” (ông lấy) hay “hõm bò” (bỏ hòm), như thợ may khác.
Không ngờ đi tỵ nạn, đến London, nghề phó may lại có dịp trở lại. Ở đây, may gia công, ngày tối thiểu dăm chục chiếc, công may từ £0.30 đến £0.40/chiếc. Xưởng may 10 cũng may theo dây chuyền, thợ bậc 5 chỉ may nổi 20 đến 25 chiếc/ngày là hết cỡ. Mặt hàng lại đơn giản, quanh năm có 4, 5 mẫu, nhắm mắt cũng may được. London khác, bạn cô L. bảo, tuần nào cũng có mẫu mới. Có nghĩa là phải thật giỏi, may như vợ tôi, có ăn cám.
Cô chú Th. có nhà riêng, mua chiếc máy may Brother, hệ công nghiệp. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy chiếc máy may và mô-tơ to như thế. Mỗi lần cô L. ấn bàn đạp, tiếng dzí-dzí vang lên, ngang xe máy, nhìn, cảm thấy không nhanh mắt nhanh tay chắc chiếc kim kia bập luôn vào ngón tay giữ vải. Điều khiển máy còn khó, làm sao mà may được những chiếc áo, quần theo đúng mẫu chủ hàng giao. Vợ tôi hàng ngày đến nhà cô L., hai người tập may, khốn nỗi ngày nào cũng may thẳng, vài buổi ngán, ngán nhất là chẳng ra xu.
Tôi bàn, kiếm hàng thật dễ, may thẳng, luyện tay nghề đã. Ok, chí phải. Tôi xem mục quảng cáo việc trên báo, trời không phụ chúng tôi, không ngờ có nơi cần thợ may túi ngân hàng. Thử tay nghề, đạt yêu cầu, thế là có việc. Chủ cho người đưa hàng đến tận nhà, 1000 túi/30 bảng. Nghe mừng rơn, cô chú Th. gật đầu sái cổ, tưởng bét ra 1 ngày cũng may được 500 chiếc, kiếm 15 bảng ngon ơ. Không ngờ, hàng này xương quá, khó gặm. Vải dày, bền, cứng như vải chúc bâu của Việt Nam, đủ các màu, hình vuông, cỡ 60 x 60 cm, nhiệm vụ phải làm:
1. May hèm trước.
2. Gấp đôi lại, thành hình chữ nhật 30 x 60 cm.
3. May 2 lần chỉ 3 mặt.
4. Xếp 100 chiếc/bó dây chun.
Vải chắc, thô, chạy chậm. Ban đầu vừa sức tay nghề. Mô-tơ rít, tiếng kim vỗ vào mặt vải kêu phập phập, nền nhà rung ầm ầm. Chúng tôi đang thuê nhà J. làm sao kê máy được, chịu, mình cô L. may. Cả tuần không may xong 1000 túi, ngán ngẩm quá. Người đưa hàng, dân Hong Kong, động viên, chịu khó, làm lâu sẽ quen, người ta kiếm tiền trăm đấy, cố lên. Chú Th., thằng con 5 tuổi, về đến nhà lăn vào gấp túi, vài tháng, tay nghề lên. Kiếm được 50 bảng/tuần cũng đổ mồ hôi nhiều.
Sau 2 tháng, tôi điền form xin được trợ cấp tiền nhà, tiền ăn của tụi trẻ. Xong một khoản. Chỉ còn chờ đợi được cấp nhà, không ngờ một chuyện đột xuất xảy ra.
Thằng J. sau khi cho thuê nhà hơn 1 năm, dành đủ tiền sửa chữa hệ thống nước và lò sưởi. Sáng ngày 12/11/1984 tôi đi làm về, vào nhà tắm, xả nước không có một giọt, đi tiểu, giật nước cũng không, xuống bếp pha cốc cà-phê không nốt. Nhà tôi đưa trẻ đi học về, bảo, thằng J. thuê người sửa bếp, cắt nước từ đêm. Sáng nay bốn mẹ con không nước rửa mặt, phải ra W.C công cộng đi toilet. Không có xô đựng, tôi mang nồi và ấm sang nhà bên xin nước. Tay hàng xóm sau khi nghe kể, sang xem, bảo, lên ngay council, tìm Environment Department, mà báo. Sau khi nghe chúng tôi kể, ông phó ban Mr. J. Ken theo chúng tôi về nhà. Đúng như trình bày, chủ nhà đi làm, ông không gặp được, bảo, hai tiếng nữa sẽ quay lại.
Đúng hẹn, ông đến, một chiếc xe van của council được điều tới chở đồ đạc giường chiếu tủ… của gia đình tôi đến flat ở West Wickham, miễn phí. Chúng tôi thuộc diện homeless được cấp nhà khẩn cấp. Vĩnh biệt J. Vĩnh biệt cảnh ăn nhờ ở đậu. Cuộc đời chúng tôi lại sang trang mới sau 5 tháng thuê nhà.
Căn hộ chung cư có 3 buồng ngủ, phòng khách rộng rãi, hai buồng đôi, một buồng đơn. Từ một người ở mướn 45 bảng/tuần 2 phòng nhỏ, nay 18 bảng/tuần, 3 buồng ngủ, phòng khách, nhà bếp, nhà tắm, toilet, vui quá trời.
Nghe tin cô chú Th. đến ngay, mừng “tái ông thất mã”, cô L. bảo, nhà anh chị ở tầng 4, may sao được, ồn ào, hàng xóm bẩm báo, phiền to. Chưa biết tính sao, sau 5 tuần bên Environment Department có người bảo, trả gia đình tôi về nhà J., nhà nó đã chữa xong. Mr. J. Ken phản đối, đã đi sao quay lại được. Đang tranh cãi, đại diện South London Association Housing, bảo, có căn nhà 4 buồng ngủ, chưa có người, phường Th. thuộc quận C. Thế là chúng tôi chuyển về căn nhà 4 buồng ngủ ngày 06/12/1984.
Hai gia đình đã có nhà riêng, bây giờ phải tìm nghề khác. Nghề bánh mỳ làm đêm tổn thọ, không trụ được lâu. Tôi bàn, tụi mình phải đi học nghề, có thế lương mới khá và bền. Đêm làm, sáng ngủ, chiều vào các Job Centre của quận, tìm việc và khóa học. Chú Th. xin được lớp thợ hàn, học 6 tháng. Tháng 1-1985 chú Th. đi học, còn lại mình tôi làm ở xưởng bánh. Tháng 2-1985 có khóa sửa chữa Điện tử một năm, nghĩ đến chiếc ti vi mua 85 bảng, chữa đòi 100. Tôi đăng ký, được giấy báo, ba tuần sau đến kiểm tra Toán và Lý trình độ A levels (tú tài). Vào thư viện, mượn sách, mặc dù 25 năm rời ghế nhà trường, ôn lại thấy kiến thức cơ bản vẫn không quên. Thi xong, hai tuần sau, giấy báo kết quả 72/100, được nhận học. Ngày 08/4/1985 tôi nghỉ việc, bước vào đời học nghề làm đời thợ sửa chữa các loại máy thu thanh, thu hình, đầu video, đầu CD.
Mấy tháng sau, mua máy may, vợ tôi may túi, làm cật lực, 10 đến 12 tiếng/ngày, mỗi tuần chỉ kiếm được #50 bảng. Tụi trẻ đi học về, bỏ cặp sách, lăn vào gấp túi giúp mẹ. Một lần trong bữa cơm chiều, tôi hỏi, nếu có điều ước, các con ước gì. Thằng út, ước không phải gấp túi, được chơi game. Tội nghiệp con tôi!
Chúng tôi bỏ may túi, may quần áo. Tay nghề lên dần, sau vài năm, có tuần kiếm được hai trăm bảng. Cuộc sống khấm khá dần, vốn tích lũy tăng, có tiền dành cho đàn con chi phí đại học.
Năm 1993, hai thằng vào đại học, vợ tôi nghỉ may, đi học Anh ngữ lớp bán thời gian, dành cho người có tuổi, gần nhà, học liền 4 năm.
Năm 1997, tất cả con tôi đều ra trường. Con gái làm bác sĩ ở King’s College Hospital, sau 1 năm tập sự (Houseman), năm 1998 thi đỗ vào The Royal of Surgeon of England, đào tạo chuyên viên phẫu thuật, đi tiếp con đường bố nó dang dở. Hai thằng đều lấy được bằng Master I.T, thằng út xin được học bổng học tiếp.
Ngày nay, tất cả đều có công việc ổn định, đã lập gia đình, vợ đẹp con khôn, ô-tô nhà lầu, ít 2, nhiều 4, mỡ nó rán nó, trả mortgate. Trai gái dâu rể đều có bằng tốt nghiệp từ Master trở lên. Ba mươi năm trước, lang thang ở bến Tam Bạc tìm thuyền, tôi chẳng bao giờ tưởng tượng có ngày hôm nay. Đời tỵ nạn của gia đình tôi buồn nhiều, nhưng kết có hậu, ngày nay có được do công sức giúp đỡ của bao người: Chính phủ, nhân dân Vương quốc Anh, các thày cô giáo Anh ngữ, bạn bè cùng cảnh ngộ. Chúng tôi đã biết dựa vào nhau, đứng lên làm lại cuộc đời. Cảm ơn Đời, cảm ơn Người, cảm ơn tất cả những ưu ái đã dành cho gia đình tôi trong suốt 30 năm qua.
Mấy năm nay, chúng tôi sáng sáng đi bách bộ, tuần 2 buổi đến Hội Hoa Kiều tập Thái Cực Quyền, weekend đàn cháu nội ngoại đến thăm, nhà đầy ắp tiếng con trẻ. Chúng tôi đã làm tròn trách nhiệm của bậc làm cha mẹ, cuộc sống hiện nay an nhàn, vui vẻ, thanh bình trong cảnh xế chiều.
Cô chú Th. giúp chúng tôi nhiều, bù lại tôi “quân sư”, giúp chú cách “bón phân, tưới nước, bắt sâu nhổ cỏ”, chăm sóc vườn hoa gia đình nở rộ, thắm tươi. Cả ba cháu đều vào được Old Palace và Whitgift of John Whitgift Schools, trường học nổi tiếng nhất của quận C., trong Top 250 trường của xứ England. Năm 1997, thằng lớn vào đại học ngành Kinh tài, năm 1999, đứa thứ hai vào Đại học Cambridge, khoa Anh ngữ hệ báo chí, năm 2001, đứa út học Quản trị Kinh tế. Các cháu đều có công ăn việc làm ổn định. Rất buồn, cô L. đã qua đời năm 2001 vì căn bệnh ung thư, chưa kịp hưởng công lao bao năm khó nhọc chăm bón, vườn cây đơm hoa kết trái.
Năm 1987, vợ chồng S. điện thoại, bảo, đã chuyển về London, có nhà ở Bow. Đến thăm, mừng rơn, thế là chúng tôi hội ngộ. Con đường về London của cô chú S. khác chúng tôi. Năm 1986, dọn về ở nhờ gia đình chị gái ở Hackney. Có quân sư bày diệu kế, hai gia đình cãi nhau tơi bời khói lửa, ai can cũng không xong, hàng xóm bẩm báo cảnh sát. Thế là được nhà khẩn cấp theo diện homeless. Đây không phải trường hợp đầu tiên và duy nhất, người Việt mình “tiếp thu” kinh nghiệm của dân Ấn, Pakistan, Jamaica, Phi châu… và chuyện cứ xảy ra dài dài cho đến năm 1988, luật về nhà cửa thay đổi, chấm dấu hết chuyện vào hostel, đập nhà, ở nhờ người thân, diễn vở “Võ Miệng”.
Cô chú S., bảo, gia đình P.H.V, thằng lớn học xong Cao đẳng ngành Vi-tính, có hai take-away, một nhà hàng ở Edinburgh to tướng, cố thủ xứ Scotland.
Dòng họ Lâm chúng tôi chuyển hết về London từ 1986, các em con chú đều có xưởng may, nhà hàng, công ty TNHH, rất khá giả, nhiều cháu (con các em) đã tốt nghiệp đại học và đang học đại học.
Người ta bảo, muốn phân biệt ai là Việt kiều Anh, Mỹ, Canada, Đức… thế hệ I, hãy làm như sau:
– Bàn tay ai nhiều chai sạn, đó là Việt kiều Mỹ.
– Ai lưng còng còng, dáng đi cúi về phía trước, hay chăm chú nhìn: Việt kiều Canada.
– Ai ngồi thật lâu không thay đổi tư thế: Việt kiều Anh.
– Ai chịu rét giỏi, đứng lâu không biết mỏi: Việt kiều Đức.
Vâng thế hệ I, tỵ nạn cộng sản, cuộc đời lầm than cơ cực, phải kiếm sống bằng mọi ngành nghề khốn khổ trong những năm tháng đầu tiên đến xứ người như vậy đấy. Đó là những đồng tiền kiếm bằng mồ hôi, nước mắt của chính mình, chẳng làm giàu bằng cách cướp nhà cướp đất, tham nhũng, đục khoét… như các quan chức cộng sản Việt Nam ngày nay.
Mai đây, ai đó, có thể ví chúng tôi là những viên gạch lát đường, là móng, là nền… cho các thế hệ nối tiếp, xây những khu siêu thị hoành tráng, những lâu đài văn hóa, khoa học của người Việt ngày một bền vững trong khối cộng đồng các sắc tộc nước sở tại, kể cũng không sai.
Chuyện ngoài lề:
1. Ngày 16/6/1979 tôi rời Việt Nam, ngày 16/6/1984, tôi rời Scotland xuống London, cũng là ngày sinh nhật của…
2. Ngày 09/9/1980, ngày chúng tôi ra định cư ở Linsay Way cũng là ngày sinh nhật của…
3. Ngày 06/12/1984 ngày chúng tôi có nhà ở phường Th. cũng là ngày sinh nhật của…
Tôi vẫn chưa hiểu sao lại có những chuyện trùng hợp ngẫu nhiên về con số đến kỳ lạ như vậy.
Kỷ niệm 30 năm làm người viễn xứ.
16-6-1979 / 05-10-2009.
© 2009 Lâm Hoàng Mạnh
© 2009 talawas blog
Bình luận
9 Comments (bài “Lâm Hoàng Mạnh – Buồn vui đời tỵ nạn (phần cuối)”)
Cảm ơn bác Lâm Hoàng Mạnh đã viết loạt bài rất hay. Tôi đã đọc tất cả các bài viết của bác và giới thiệu cho nhiều người khác đọc. Từ lâu tôi vẫn quan tâm đến số phận của những người Việt gốc Hoa đã rời bỏ Việt Nam sau năm 1978. Đây là lần đầu tiên tôi được nghe kể lại một cách chi tiết về những gì đã xảy ra, từ một người trong cuộc, với một ngòi bút tài hoa, bằng tiếng Việt. Đúng ra thì BBC cũng đã có một loạt phóng sự về đề tài này, tuy rất quý nhưng thông tin không nhiều bằng của bác Mạnh. Tại Việt Nam thì ngoài thông tin một chiều của nhà nước để thi tài với những thông tin (cũng một chiều) của Trung Quốc trong các năm sau 1978, hầu như không có tác giả nào viết về sự kiện đau thương này. Tôi nói “hầu như” vì cũng có một lần duy nhất tôi đọc được một bài thơ trong tập thơ của nhà thơ Dư Thị Hoàn, có nhắn nhủ người thân của mình “dưới ánh đèn neon rực rỡ, bên kia Thái Bình Dương”. Nữ sĩ Dư Thị Hoàn, cũng người gốc Hải Phòng như bác Mạnh, theo tôi được biết vẫn là hội viên người Hoa duy nhất của hội nhà văn Việt Nam hiện nay (trước chỉ có Hồ Dzếnh mà thiên tuyệt bút “Chân trời cũ” thấm đẫm tình yêu quê mẹ của ông đã không được hội nhà văn cho tái bản dù chỉ một lần).
Rất mong sẽ có nhiều tác giả gốc Hoa như bác Mạnh nhưng lại về Trung Quốc, hoặc đã ở lại Việt Nam, lên đây chia sẻ những kinh nghiệm buồn vui của cuộc đời mình cho các thế hệ sau được biết rõ thêm về một giai đoạn của lịch sử thì hay biết mấy. Tôi còn nhớ những ngày trôi giạt trên đất Trung Quốc, bị cảnh sát chửi bới, dùng dùi cui xua đuổi. Chính những người Hoa kiều này đã xông ra can thiệp, bênh vực những người đồng hương “Dzịt nàm nhằn” khốn khổ là chúng tôi. Kết quả là chính họ cũng bị cảnh sát quay ra chửi bới (nhưng không dám đánh). Rồi họ cho chúng tôi thuốc lá hút và ngậm ngùi hỏi về phố xá, quê quán mà họ đã bỏ lại ở Việt Nam. Có người trong số này vẫn duy trì nói tiếng Việt trong gia đình. Họ bảo làm thế để khi nào muốn nói chuyện riêng với nhau thì bọn cán bộ, công an không hiểu mình nói gì! Mà càng làm thế thì tất nhiên là càng bị ghét thêm. Tôi rất mong có dịp được quay lại nơi này. Theo tôi nhớ lại thì người trên thuyền tôi gọi nó là Hải Yến, nằm cách eo biển Lôi Châu khoảng một ngày đi biển về phía bắc. Hoa kiều ở đó đa số làm công nhân trong một nông trường trồng mía và một nhà máy sản xuất đường. Nếu bác Mạnh biết chỗ này là vị trí nào trên bản đồ thì xin bác làm ơn chỉ giùm tôi. Một lần nữa xin cảm ơn bác Mạnh đã cho tôi đọc những mẩu chuyện thật hay, lúc thì cảm động muốn rơi nước mắt (như lúc vợ con bác bị người nhà xua đuổi, không cho tá túc qua đêm ở Hải Phòng), lúc thì phẫn uất, khinh ghét vô cùng (như khi nghe gã công an khả ố chúc bà con ăn cá), lúc lại không nhịn được cười (như khi viên sĩ quan công an người Mường giả bộ ngây ngô).
Xin cảm ơn bác và chúc bác cùng gia đình mạnh khỏe, an khang.
Cảm ơn tác giả , qua 12 phần vui buồn đời tỵ nạn
tui đã bị cuốn hút vào 1 câu chuyện thật gian nan vất vả nhưng đầy sự lạc quan và luôn hướng tới cái điều đẹp đẽ của bạn
Nếu bạn cho ra loạt bài ” Nụ Cười Đời Tỵ nạn ” tui xin ủng hộ và cảm ơn bạn lần nữa
Cảm ơn một loat 12 kỳ bài viết “Buồn vui đời tỵ nạn” của bác Lâm Hoàng Mạnh. Bác viết hay đến nỗi mình không phải người đọc giỏi chữ Việt cũng phải cố gắng theo đọc cho đến cuối, dù là tốn thời gian rất lâu để hiểu được hết ý bài diễn tả. Thank you very much.
Mình cũng thuộc thành phần thuyền nhân tỵ nạn như bác sau chiến dịch bài Hoa và đánh tư sản mại bản (đến giờ cũng chả biết tư sản mại bản là nghĩa làm sao?), không được phép vào trường học tiếp tục, nên mới vượt biên. Cả nhà được sinh ra ở miền Nam VN nên lúc nào cũng thấy người nam Việt Nam rất dễ mến, tiếng Việt Nam dễ thương. Lúc rời khỏi VN còn nhỏ quá, tuy cũng trải qua những chuyện đói và khát, sóng gió, gặp hải tặc, nhưng đã không sao hết, lại được tàu Cap Annamur của Tây Đức vớt và đưa vào Singapore tạm ở chỉ có 3 tháng, nhà ở cũng thật tốt, và còn được phát tiền cho xài, đi coi phim Hong Kong liền hôm sau ở phố chợ, thức ăn mỗi ngày lại có những nhà hảo tâm người Hoa chở cả xe đến cho ăn cơm hộp miễn phí như mua tại tiệm cơm, không biết lo lắng như người lớn là gì. Thời gian từ trại tỵ nạn ở Singapore đến trại tỵ nạn ở miền trung Tây Đức đều được những người lớn lo cho đầy đủ, nên không có những kinh nghiệm đau thương lo lắng quý giá như của các bác. Tuy nhiên sau khi trưởng thành, học xong ra trường và lập nghiệp, mình đã cố gắng quay lại học hỏi văn hóa của đông phương để giữ gìn như cha mẹ đã mong muốn. Thời gian qua thật rất cảm ơn vì đã đọc được những bài viết đầy cảm xúc của thân phận người tỵ nạn, nó luôn nhắc nhở mình đừng quên sự hy sinh khổ cực của cha ông mình, đừng quên đi quá khứ khi cuộc sống hiện tại quá ư là đầy đủ đến ê hề. Khi nào bác có xuất bản thành sách thì xin thông báo trên talawas để mình có thể mua một cuốn để dành trong tủ sách gia đình, và sẽ còn đón đọc tiếp các bài viết mới của bác.
Có những chi tiết bác viết về cuộc sống ở miền bắc lúc mới đậu bác sĩ ra trường cũng thật thấm thía về nhân sinh lúc va chạm với xã hội thời ấy. Những người như mình thật khó có thể hình dung ra được nếu không đọc những bài viết của người trong xã hội đó. Cảm ơn bác một lần nữa. Chúc bác an khang và mọi việc như ý.
Kỳ thực không ngờ làm “người việt hồi ký tự sự bất đắc dĩ” ấy thế mà được các bác các anh quý và yêu mến.
Vậy tôi xin tiếp tục phần Nụ Cười Đời Tỵ Nạn, bởi vì có bạn email hỏi : Ủa, 30 năm chỉ thấy buồn nhiều, còn niềm vui quá nhỏ nên không cười được chăng. Xin thưa, có cười đấy. Vậy cười như thế nào, xin các bác các anh chờ loạt bài Nụ Cười Đời Tỵ nạn trong thời gian không xa.
@ Bạn Hùng Quốc.
Tôi có mong muốn một ngày nào đó được “cũng ly với T.N.Tiến (hẹn hò nhưng chưa rõ ngày), Hoàng Trường Sa và nay nếu có Hùng Quốc” thì chắc trẻ thêm 1 thập niên bởi vì anh em tứ xứ Anh, Mỹ (T.N.T), H.T.Sa (Uc) nếu H. Quốc (ở Đúc) toàn dân Việt kiều thứ thiệt thì tuyệt còn gì. Nhậu tới bến luôn. Nhưng chỉ từ A tới X thôi, miễn khoản tới Z.
Xin tiết lộ, bà nhà tôi 99% tuyệt vời chỉ có 1% Sư tử Hà Đông thứ thiệt. Tôi nghiêm chỉnh nên 1% kia coi như … xí xóa.
Thôi ta cứ tạm cụng ly “trong mộng” vậy.
L.H.Mạnh
Tôi đã theo dõi, mong chờ để được đọc tiếp loạt bài của bác Lâm Hoàng Mạnh sau khi được hân hạnh đọc bài đầu tiên. Bác là 1 người viết có tài mặc dù bác không cố tình làm văn; bác không cần dùng từ đao to búa lớn, hàn lâm, bác học để loè thiên hạ nên có người cho rằng bác “mộc mạc”. Lời văn bác nhẹ nhàng, trơn tru, gọn lỏn, không thiếu không thừa, khác với những “nhà văn” mà khi đọc xong không để lại 1 ấn tượng gì trong tôi.
Điều thú vị nhất là khi biết bác sinh ra và trưởng thành ở miền Bắc nhưng giọng văn của bác lại rất “Nam bộ”. Nhiều từ bác dùng tưởng như chỉ có thể nghe được ở những đường hẻm, con phố của miền Nam thôi. Nhà văn,nhà phê bình văn học Võ Phiến ( người gốc Bình Định) có lần nhận xét rằng “người Bắc nói như viết, người Nam viết như nói”, nếu điều này đúng thì bác Lâm Hoàng Mạnh là 1 trường hợp ngoại lệ. Lời văn bác không cầu kỳ, trau chuốt mà tự nhiên như một giòng suối chảy hiền hoà tưới mát cỏ cây, đọc đến đâu thấm đến đó.
Xin được cảm ơn bác Lâm Hoàng Mạnh đã bỏ thời giờ ghi lại những kinh nghiệm “xương máu” cho các thế hệ mai sau. Đoạn bác kể về đời sống thường nhật ở thiên đường XHCN miền Bắc, con người được lệnh theo dõi lẫn nhau thật không xa với “1984” của George Orwell là bao. Đây là những bài học mà các thế hệ người Việt trong và ngoài nước phải biết……….. Trân trọng.
Sao hết sớm thế bác Lâm. Có lẽ bác nghĩ bây giờ mình hết “tị nạn” rồi chăng? Tuy trẻ hơn bác nhiều, nhưng ra đi cũng vào độ tuổi “đang chín” như bác, tôi chưa từng lúc nào cho rằng mình mất dấu “tị nạn”. Thật thế đấy bác ạ, trong lòng tôi luôn có cái u uẩn như của cây nhãn lồng Hưng Yên đem trồng đất khách không sao mà dứt được.
Nếu bác đã nói “lời cuối” thì ai còn giữ bác được, tôi xin chúc bác và gia quyến luôn khang an. (tuy ông không nhắc nhiều đến bà xã nhưng tôi tin là bà nhà rất tuyệt, chiều ông thế còn gì, chúc mừng ông nhá)
Tái bút: Cho tôi hỏi chút chuyện trước đây, định bụng hỏi mấy lần song chuyện nọ chuyện kia nó quên đi mất. Vậy chai rượu “mười năm” lần trước mà bà nhà mua cho ông đã “cưa” hết chưa, có “khứa” nào không? Tôi cũng có chai Jack Daniel’s mua từ Noel năm ngoái, nay Tết nhất đến nơi mà chỉ “cưa” được có nửa già (nhưng riêng rượu vang đỏ thì tôi có mà cưa cả thùng 🙂 )
Cám ơn ông Mạnh. Lòng tôi dịu lại sau khi đọc bài viết của ông. Lúc nãy tình cờ đọc trên Dân Luận bài “Kẹt xe do vô kỷ luật, ích kỷ và ngu” của một Hồ Lan Hương nào đó, tôi thật bàng hoàng. Tôi bàng hoàng không vì cảnh kẹt xe, tôi từng quen biết lắm với cái cảnh kẹt xe trên đường Sài Gòn. Tôi bàng hoàng vì cái văn phong thật “đậm đà bản sắc văn hoá” của người viết. Ôi chao! Thật rùng cả mình! Có bao nhiêu người Hà Nội có cái “văn hoá” như bà Hương? Người Hà Nội nghĩ gì khi đọc bài viết của bà Hương? Chao ôi!
Một lần nữa, cám ơn ông đã chia sẻ kinh nghiệm sống ở xứ người.
Cảm ơn anh Lâm Hoàng Mạnh. Đã theo anh đến dòng chữ cuối vì cũng ở Kho Đen như anh.
Chúc anh và gia đình mọi thời đều an lành.
Rất cảm ơn loạt bài viết 12 kỳ “Buồn vui đời tỵ nạn” của ông Lâm Hoàng Mạnh.
Câu chuyện của ông thật là sống động, lời văn ông kể giản dị và cuộc đời của ông cũng đáng cho nhiều người nhìn vào mà noi theo hoặc ít ra cũng thêm phần suy ngẫm.
Có lác đác một- hai phản hồi cho rằng một- hai mẩu chuyện của ông Lâm chưa thật chính xác lắm. Điều đó không quan trọng, tôi đã đọc say sưa câu chuyện của ông, và nếu ông có ý định in thành một tập mỏng thì tôi cố gắng ủng hộ một cuốn.
Cuộc đời con người không đơn thuần được đánh giá cao bằng thành tích, hoặc những ngày tháng dài, rộn ràng xuống ngựa, lên xe… mà chính là những kỷ niệm, những khoảnh khắc đáng nhớ. Trải nghiệm cuộc sống là một trong những vốn quý mà con người cần để lại. Thật là vui khi được ông Lâm Hoàng Mạnh chia sẻ những trải nghiệm của đời ông.
Thanks again.