trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
  1 - 20 / 97 bài
  1 - 20 / 97 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Văn họcLý luận phê bình văn học
24.7.2004
Trần Thanh Đạm
Một sai lầm thế kỷ trong lý luận phê bình văn học
 1   2 
 
Xuất phát từ nguyên lý sai lầm: cắt đứt hiện tại với quá khứ, đối lập văn học với văn hóa ngôn ngữ, ngôn từ nghệ thuật với mọi ngôn ngữ, ngôn từ bình thường khác, xây những ốc đảo, những xà lim biệt giam gọi là “nghệ thuật” để nhốt các nghệ sĩ và những người yêu nghệ thuật vào đó thuyết phục họ rằng đó mới là nghệ thuật tinh vi, cao cấp, thượng lưu, tri thức, v.v… Điều này rất hấp dẫn đối với những kẻ bất tài mà mong nổi danh, ngu dốt mà làm ra hiểu biết, những bọn “trưởng giả học làm sang”, “quạ mượn lông công, cáo đội lốt hổ”, mượn danh người nước ngoài lòe bịp người nhà đi xa về hay ở ngoài tha hồ nói khoác. Hồi mới giải phóng miền Nam, giải phóng Sài Gòn, tôi hân hạnh gặp một số nhà tri thức yêu nước, yêu cách mạng tại nội thành. Họ rất khinh miệt cái thứ văn học thuộc các trường phái nói trên du nhập ồ ạt vào miền Nam mà họ gọi là “văn học ngu dân” (littérature d’obscurantisme) và khi thấy một số tàn tích của chúng hình như được một số người “phục sinh”, “tôn vinh” trở lại nền văn học yêu nước và cách mạng chúng ta, họ rất ngạc nhiên, sau một hồi quan sát, họ kết luận rằng đó là tâm lý sùng ngoại, vọng ngoại còn sót lại, đó là “di chứng thuộc địa”, hay “di chứng nô lệ”, nói nhẹ hơn đó là hoài niệm thời vàng son của mồ ma chế độ thực dân, phong kiến ngày xưa. Quy luật là vậy: vọng ngoại thường đi đôi với thủ cựu. Cần nâng cao tinh thần độc lập, tự chủ. Học xưa vì nay, học ngoài vì trong, tiếp nhận truyền thống và thế giới một cách chủ động, sáng tạo và có chọn lọc, sàng lọc và suy nghĩ. Khổng Tử nói: “Học nhi bất tư, tắc võng” (Học mà không suy nghĩ thì sai lầm). Tiếc rằng thời nào, ở đâu cũng có một bộ phận “học nhi bất tư” như vậy.

Xu hướng lý luận, phê bình cũng như sáng tác phương Tây khởi đầu với chủ nghĩa hình thức, đi vào chủ nghĩa cấu trúc, chủ nghĩa hiện đại, chủ nghĩa hậu cấu trúc, hậu hiện đại rồi nhiều các trường phái khác: tiểu thuyết mới, phê bình mới, văn học phi lý, văn học suy đồi, thi ca vụt hiện, thi ca rú rít như con thú, cùng mọi thứ quái thai khác, chung quy đều xuất phát từ quan niệm văn học chỉ là nghệ thuật ngôn ngữ (language exercise, literary craft) biến ngôn ngữ thành một trò chơi, trò ảo thuật, áp dụng cái công thức của chủ nghĩa hình thức Nga mà chính tác giả của nó là Chklovski đã từ bỏ, đó là “Nghệ thuật như là thủ thuật”, loại bỏ nội dung, ý nghĩa, tư tưởng, nhận thức, tri thức, lương tâm, lương tri, v.v… ra ngoài văn học, làm cho văn học trở thành văn học không có con người, văn học phi nhân, vô luân, vô thức, v.v… Thứ văn học này bắt đầu bằng chủ nghĩa hình thức và giá trị cao nhất của nó là chủ nghĩa duy mỹ. Phủ nhận ồ ạt tất cả thứ văn học này cố nhiên là không nên, vì nó cũng đóng góp ít nhiều cho sự đổi mới hình thức, thủ thuật, thi pháp văn học. Ở đâu nó kết hợp được với chủ nghĩa hiện thực thì nó có thành tựu, cống hiến. Khi nó chỉ là nó thì nó trở thành vô nghĩa, điên rồ cũng đúng thôi, bởi vì một nền văn học tuyên ngôn coi khinh ý nghĩa (meaning) thì còn có ý nghĩa gì nữa. Nếu nó không còn có ý nghĩa gì cả, chỉ tồn tại thôi, thì “tồn tại hay không tồn tại” đó là một vấn đề. Nói chung, văn học mà không có ý nghĩa thì sự tồn tại cũng như không tồn tại. Trong bài viết Vài suy nghĩ về định nghĩa văn học là nghệ thuật ngôn từ, tôi cho rằng văn học là sự vận dụng ngôn ngữ một cách nghệ thuật, biến ngôn ngữ thành ngôn từ nghệ thuật, nghệ thuật ngôn từ, tức là đưa văn học và ngôn ngữ vào giao tiếp giữa người và người, giao tiếp văn hóa, giao tiếp tư tưởng, tình cảm, giao tiếp nghệ thuật, nói chung là giao tiếp xã hội. Văn học không thể đứng ngoài giao tiếp xã hội, dù hình thái giao tiếp của nó là đặc thù. Ngôn ngữ phi giao tiếp là ngôn ngữ chết (tử ngữ). Văn học phi giao tiếp cũng là văn học chết (tử văn).

Sự sai lầm của lý luận văn học phương Tây (thực ra chỉ là một bộ phận tật bệnh của nó thôi, không phải là tất cả) đã giết chết ngôn ngữ, giết chết văn học vì nó cổ xúy cho sự hủy diệt của giao tiếp, chức năng cơ bản của ngôn ngữ và văn học. Tật bệnh này có nguồn gốc xã hội, văn hóa của nó, từ sự khủng hoảng tinh thần của xã hội phương Tây mà E.Husserl và học trò là Heidegger phát hiện và tuyên cáo vào năm 1935, cuối thế kỷ XX được M.Kundera khẳng định lại trong tập sách Nghệ thuật tiểu thuyết của ông. Không phải các nhà cách mạng, những người cộng sản nêu lên sự khủng hoảng đó. Không thể nào khác hơn khi giải thích khủng hoảng văn học bằng khủng hoảng xã hội nhất là khủng hoảng tinh thần (đây cũng là ý kiến của chính M.Kundera). Khi văn học đã khủng hoảng về tinh thần thì sự cứu rỗi là chủ nghĩa hình thức, đó là con đường tương đối trong sạch như văn học tượng trưng, siêu thực, song tệ nạn của nó là sự điên rồ, sự phá phách, sự tự hủy diệt và hủy diệt người khác, phát hiện ra “địa ngục là người khác, rồi địa ngục là chính mình”. Loài người là quỷ sứ, thế giới là địa ngục. Nếu nhân loại là quỷ sứ, và thế giới là địa ngục, thì văn học và lý luận phê bình của nó ít ra cũng phải là một thứ Luyện ngục (Purgatoire) giúp vào sự cứu rỗi chứ lẽ nào vô tâm? Hay như Mục Kiều Liên liều mình xuống chín tầng địa ngục để cứu mẹ ra khỏi hình phạt vạc dầu, cưa xương xẻ thịt, chứ không phải đâu chỉ rong chơi, ca hát như con vẹt học nói tiếng người hay con cú kêu ma. Ôi, còn đâu là chủ nghĩa nhân văn?

Có gì mới ở phương Tây?/ Có đêm và có ngày/ Có vàng và có sắt/ Có máu và nước mắt/ Có những sói lang và có những anh hùng (Tố Hữu). Phương Tây không phải chỉ có bóng tối mà còn có ánh sáng, không chỉ có khủng hoảng mà còn có phục sinh. Văn học nghệ thuật phương Tây cũng vậy. Và lý luận văn học cũng thế.

Khi nói sai lầm thế kỷ lý luận văn học phương Tây, tôi chỉ nghĩ đến một bộ phận nhỏ nào đó mà thôi, đó là một vùng bóng tối u minh trong một khoảng trời khai minh. Truyền thống Ánh sáng không phải bắt đầu với quan niệm văn học lệch lạc và sai lầm của T.Todorov. Đó là cái nhìn của những kẻ hoang mang và tuyệt vọng (Hình như những người ly khai, lưu vong với Tổ quốc và cội nguồn thường có cái não trạng ấy). Còn những người sâu rễ bén gốc trong lòng dân tộc và nhân dân mình, đồng thời cũng là trong lòng nhân loại thì không bao giờ tuyệt vọng. Họ có thể thất vọng song không bao giờ thôi hi vọng. Hi vọng là gì? Hi vọng là mảnh trời xanh hiện ra khi trời còn giông bão. Như trong bài hát của Nguyễn Đức Toàn: đó là “Lẽ sống niềm tin/ Giữa biển khơi biết đâu là bờ/ Một trời xanh chưa từng thấy bao giờ…” Khác với văn học hình thức, duy mỹ, suy đồi của phương Tây và sự tự ý thức của nó trong lý luận văn học, sáng tác và lý luận của chúng ta, của nước Việt Nam đang hồi sinh, phục hưng không việc gì không ốm mà rên, bỗng dưng mua não chuốc sầu, không rượu chè, thuốc xái gì cũng tự xưng là trụy lạc, phóng đãng cho ra con người nghệ sĩ, tự làm rắc rối đầu óc của mình để tỏ ra thông thái, uyên thâm. Gọi cái thứ sáng tác và lý luận đó là văn học của bóng tối, văn học của chủ nghĩa ngu dân cũng là đích danh. Mọi sự biện minh cho nó đều phải dùng đến thuật ngụy biện…

Nhờ tiếp xúc với ngôn ngữ và văn học phương Tây mà ngôn ngữ và văn học Việt Nam ta trở nên khúc chiết, trong sáng hơn mà cũng rộng thoáng, sâu sắc hơn. Giản dị, trong sáng là phẩm chất cao nhất của ngôn từ nghệ thuật cũng như ngôn từ khoa học, lý luận. Đó mới là di sản của Thế kỷ Ánh sáng.

T.Eagleton đi đến kết luận: “Phê bình văn học đúng nhất, tốt nhất là “phê bình chính trị”. Ông là nhà lý luận mác – xít phương Tây. Nếu hiểu chính trị một cách sâu sắc và rộng rãi (ở chỗ khác ông dùng khái niệm hệ tư tưởng (ideology) mà T.Todorov kiêng kị một cách sợ hãi), thì tôi có thể đồng tình với quan điểm của ông, bởi vì văn học (sáng tác cũng như lý luận, phê bình) là việc của cá nhân và cộng đồng, của những con người. Những con người này làm sao ngoảnh mặt làm ngơ đối với số phận của dân tộc và nhân loại đang đối mặt với bao nhiêu thách thức và hiểm họa? Còn T.Todorov, người tôn vinh chủ nghĩa hình thức song cuối cùng lại xướng xuất “Phê bình đối thoại” tức là trở về với chức năng giao tiếp của ngôn ngữ, văn học và phê bình, đó cũng là sự “hồi tâm” đáng hoan nghênh. Theo tôi nhận thấy, hiện tại lý luận văn học phương Tây đang trở về với chủ nghĩa lịch sử và họ gọi là chủ nghĩa tân lịch sử (neo-historicism) hoặc đưa văn học hội nhập vào văn hóa và đa văn hóa (culturalism và multiculturalism), vào bối cảnh giao lưu, đối thoại giữa các nền văn hóa, cũng như có phong trào văn học nữ quyền, văn học da đen, văn học hậu thực dân, văn học hướng về nhân loại bất hạnh trong “thế giới thứ ba”, v.v… Có người gọi đó là “cuộc trở về lớn” của tư duy văn học phương Tây. Thực ra, như đã nói, ý thức và lý tính lành mạnh của phương Tây không bao giờ bị tiêu diệt, dù suy thoái mà vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển. Dù có những sai lầm thế kỷ như tôi nói bên trên, tôi vẫn tin phương Tây thế kỷ XX không phải là một Dark Age (thời kỳ đen tối) mà chủ yếu vẫn là một thời và một vùng Ánh Sáng tiếp tục truyền thống Ánh Sáng thế kỷ XVIII (Enlightenment). Bước vào thế kỷ XXI, nhiều sự kiện văn học nghệ thuật chứng tỏ điều này. Trong muôn vàn sự kiện giàu ý nghĩa, tôi nghĩ đến cuốn sách và bộ phim của Michael Moore, nhà văn và nhà điện ảnh tài danh của Mỹ và giải thưởng Cành Cọ Vàng Liên hoan Điện ảnh Cannes 2004 tặng cho ông cùng với sự hoan nghênh và hâm mộ của giới văn nghệ, giới phê bình và đông đảo công chúng toàn cầu đối với ông. Điều này chứng tỏ rằng sang thế kỷ XXI, lương tri, lương tâm của phương Tây (bao gồm cả Mỹ như M. Kundera đã xác định) vẫn còn là những mảnh trời tươi xanh của hi vọng giữa giông bão của chủ nghĩa khủng bố các loại đang đe dọa nhân loại trên toàn thế giới.

Nói đến hi vọng là một mảnh trời xanh, tôi nghĩ đến văn học nghệ thuật Việt Nam cùng với nền lý luận, phê bình của ta như chiếc mũ tai bèo trong thơ Tố Hữu (Ôi chiếc mũ vải mềm dễ thương như một bàn tay nhỏ/ Chẳng làm đau một chiếc lá trên cành/ Sáng trên đầu như một mảnh trời xanh/ Mà xông xáo mà tung hoành ngang dọc…)

Bài này được viết với tinh thần “phê bình đối thoại”, và tất nhiên cả “phê bình chính trị”. Có thể nào khác được?

6-2004
Nguồn: Báo Văn Nghệ, số 30 (24.7.2004)