trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
  1 - 20 / 305 bài
  1 - 20 / 305 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Tản văn thứ Sáu
18.8.2006
Nguyễn Hoàng Văn
Cô Ba thích thịt quay
(Hay: Từ Phật, Chúa, Marx, Mao đến Thanh Hải Vô Thượng sư, Thầy Đáng nhân điện...)
 
Thế là từ nay cuốn tự điển về thần thánh của tôi lại có thêm một nhân vật mới: “Cô Ba”.

Cô không phải là người đẹp có tiếng một thời ở Nam Kỳ, có hình trong nhãn hiệu “Xà bông cô Ba” chế từ dầu dừa, sản phẩm nội hoá cũng có tiếng một thời ở Nam Kỳ. Không rõ cô Ba mới này đẹp hay xấu, nhưng, nhất định, nói theo giọng Nam Kỳ của Sơn Nam, cô phải là một “nhơn vật đặc biệt”. Cô đặc biệt ngay ở chữ “cô”: sao không là “dì”, là “mợ”, là “thím” hay “bà Ba” mà lại là “cô Ba”?

Thì cứ tàm tạm giải thích bằng tính gợi hình ở ngôn ngữ xưng hô. Nhắc tới “dì Ba” chúng ta thường nghĩ đến một bà vợ bé thịt da mơn mởn bên ông chồng già khụ mắc chứng đau lưng, những khi chiều xuống hay ngồi ho sù sụ. Nhắc tới “mợ Ba” thì chúng ta có khuynh hướng tưởng tượng ra một phụ nữ trung lưu trắng da dài tóc, có phần lắm mồm và ác nghiệt với đám con cháu nhờ vả. Với “thím Ba”, chúng ta lại nghĩ đến một phụ nữ đang ngồi xắn quần nấu cám lợn hay sàng gạo trong một chái bếp tranh tối tranh sáng nào đó. Riêng “bà Ba” thì mất hết trang nghiêm, bà dễ nhắc chúng ta nhớ lại thời còn là con trẻ với câu nói toàn những chữ bắt đầu bằng “b”: “Bà Ba bả bán bánh bèo bên bờ bể, bả bị bọn bộ binh bắn bể bụng.”

“Cô Ba” thì khác hẳn. Sang hơn, “cô” còn thiêng lên với mùi nhang khói cùng câu kinh tiếng kệ khi nhắc chúng ta tới những “cô” son phấn loè loẹt, quần áo lụa là loè loẹt và điệu đàng với thanh gươm gỗ, dải lụa gấm hay cái mái chèo trên tay như thể đang xông pha giết giặc, đang chuẩn bị treo cổ giữ trọn tiết liệt hay đang vì nước chèo thuyền qua sông. Hễ mỗi lần cô xướng trước điện thờ “Đông, tây, nam, bắc cũng có cô” với âm ô... ô... ô... vuốt đuôi thật dài thì, kính cẩn và tâm thành, đám đệ tử ngồi chầu hai bên lại rạp người sát đất để “Da.. ạ... ạ...” cũng thật dài trong tiếng mõ tiếng phách lách cách và tiếng đàn kìm bầm bập rơi rớt tựa những hạt mưa cùng tiếng nỉ non của cây đờn cò nghe ai oán như một lời tống biệt. Mà thật. Bầy đệ tử này lo lắm, sợ lắm. Họ lo cô... thăng. Họ sợ cô thăng biệt, không ở lại chỉ vẽ hay độ trì để, may ra, cuộc đời họ sẽ sang trang mới tươi hơn, đáng sống hơn như cho họ một con số đề trúng phóc, chẳng hạn, hay những vận hội để mua may bán đắt, để thăng quan tiến chức, chẳng hạn.

Cô Ba cũng thế, thậm chí độc hơn. Đệ tử thờ cô chăm, thành và đều đều, mỗi tháng một cữ, họ cúng dâng cô một mâm y boong khẩu vị. Họ sợ cô bỏ bê còn hơn đám đệ tử hầu đồng sợ cô đồng thăng biệt. Đồng thăng, đám đệ tử dạ rân kia chỉ trật số đề hay chậm bước thăng quan tiến chức là cùng. Cô Ba mà “thăng” thì đời đám đệ tử sẽ tàn, không đi đứt với án tử hình thì cũng phá sản, mọt gông!

Cô Ba là hộ thần của những kẻ ôm ấp giấc mộng làm giàu bằng thứ bột màu trắng gọi là heroin.

Tục thờ cô Ba có từ lúc nào? Khi sì sụp lạy lục trước mâm thức ăn ngon mắt kia, đám đệ tử chỉ keo kiệt dâng lên mỗi mình cô hay là hào phóng “thỉnh mời chư vị phúc thần đồng lai phối hưởng” cho cô cùng bầu bạn chén chị chén em? Tục này chỉ có với đám đệ tử trên đất Úc hay nơi nào khác nữa? Thú thật, cái sự “nghiên cứu cô Ba” của tôi cũng chỉ là một câu chuyện tình cờ và vui miệng. Hỏi một câu, được trả lời một câu. Hỏi câu nữa, thêm một thông tin. Nhưng hỏi thêm, hỏi thêm thì tịt: dù tâm thành cách mấy, dù đã chăm chỉ hương khói cách mấy thì đám đệ tử kia cũng hoàn toàn mù tịt về cô. Đời người có bốn cái khoái, họ chỉ biết về cô mỗi một cái thú xơi món thịt quay, vịt hay heo được tất nhưng quan trọng là phải quay, và phải mặn mòi với đĩa nước tương. Trừ miếng ăn là miếng tồi tàn kia ra họ chỉ biết thêm một điều, rất chắc: cô Ba thiêng lắm!

Thì, cô thiêng. Cô giúp họ tai qua nạn khỏi, đi lọt một chuyến mấy trăm ngàn, thậm chí cả triệu. Cô khiến con mắt của mấy thầy cớm và nhân viên hải quan mờ hẳn. Cô khiến cái mũi của mấy con chó săn ma túy ở phi trường nghẹt lại dù hàng nằm sờ sờ ra đó. Mà cô lại dễ tính, hoà đồng. Cô không cầu kỳ bắt đám đệ tử bặm trợn phải ăn chay nằm đất mà chỉ xuề xoà mấy món mặn ê hề trong các khu thương mại, thứ sản phẩm cúng tế mà, dễ thường, về tính công nghệ, chỉ chịu chào thua mấy món thịt hộp hay mì ăn liền. Thế nhưng một bản khai lý lịch mà chỉ có thế thì đơn giản quá. Tôi vui chơi giữa đời ối a biết đâu nguồn cội: cây có cội, sông có nguồn thì cô Ba cũng phải có gốc gác cội nguồn nào đó chứ? Như, cô có... dượng hay không? Hay như, cô là cô Ba gì? Nếu “Mặt trận giải phóng...” ở Đồng Tháp Mười đã có “cô Ba Định” là tư lệnh phó thì cô Ba của đám đệ tử bặm trợn này cũng phải có chữ gì làm vốn ở đằng sau chứ? Không những một sắp hàng làm vốn, cô còn phải có một kỳ tích và một quê hương nào đó, ít ra cũng vào cỡ cô Ba dũng sĩ quê ở Trà Vinh, chị Hai năm tấn quê ở Thái Bình chứ sao chỉ là trần xì là “cô Ba”? Có tích mới dịch ra tuồng, huống hồ gì là một vị hộ thần biến hoá thần thông? Đã thủ đắc được quyền năng siêu nhiên để che chở đệ tử của mình trước những tai mắt cực kỳ hiện đại của hệ thống sen đầm cũng cực kỳ hiện đại, ắt cô phải có một “câu chuyện đời tôi” ly kỳ hấp dẫn như thế nào đó chứ?

Thế nhưng cái “lý thuyết cô Ba” ấy của tôi đã bế tắc hoàn toàn. Tôi chẳng thể nào tìm thấy một lớp lang huyền thoại ly kỳ hay bi tráng về vị hộ thần đứng bên ngoài pháp luật, sẵn sàng che chở cho những kẻ cũng sẵn sàng dẫm lên pháp luật. Cô, chẳng qua, cũng chỉ là một thứ thần tự phát. Và cô đã “phát” rất sảng theo kiểu vớ quàng vớ xiên nhằm tạo dựng một chỗ dựa tinh thần cho cái nghề liều mạng với bao nhiêu là cạm bẫy, bất trắc.

Cô Ba, như thế, đã xuất hiện như bất cứ thứ “thần thánh” đời mới đếm không xuể giữa những ngày này. Nhưng khác với đa số “thần thánh” chỉ “phát” lên với tôn chỉ hướng đến con đường cứu rỗi và giải thoát vĩnh hằng ở kiếp sau, cô Ba đã phát theo cái tôn chỉ cứu rỗi rất là... ăn liền ở ngay cái cuộc đời tạm bợ và ăn liền này. Là đấng cứu rỗi khẩn cấp và tạm bợ ăn liền, bản lý lịch phong thánh của cô cũng tạm bợ ăn liền như một vị thần vô sản căn cơ, vô sản cả cá tính và niềm vui, nếu không kể cái thú vui nhìn bầy đệ tử sì sụp lạy con heo hay con vịt được bôi màu cứ như là bôi mặt Quan Công.

Dầu sao thì, trong bất cứ tình trạng khẩn cấp nào và với bất cứ phản ứng quàng xiên vá víu nào, chúng ta cũng có thể lần ra hai dấu vết xác định: bản năng của kẻ chơi và môi trường chứa đựng cuộc chơi. Khi đưa cô Ba lên bàn thờ như một đấng hộ thần, khi sì sụp lạy cô cùng con heo hay con vịt quay, đám đệ tử đã thể hiện bản năng tín ngưỡng của mình và đã chọn lựa theo đúng những điều kiện sao cho thuận lợi cho mình.

Cứ nghĩ: dù không cần phải dũng mãnh cỡ Từ Hải “Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao” nhưng, theo lẽ thường, bậc hộ thần của đám đệ tử bặm trợn kia cũng nên bặm trợn và, do đó, ít ra cũng không nên đứng về phái yếu chứ? Tại sao họ không dâng thịt quay cho “chú Ba”, “bác Ba”, hay “cậu Ba” mà lại phục tùng một phụ nữ chân yếu tay mềm? Lại nghĩ: từ xưa đến nay, có quay về cúi đầu tạ tội, có bao giờ đứa con lầm lạc tìm về với bố trước đâu? Chỉ có vòng tay mẹ mới là vòng tay bao dung và đám đệ tử làm cái nghề bị cả xã hội chê là lầm lạc kia cũng phải tìm kiếm sự che chở và tha thứ trong vòng tay của một nữ hộ thần ví như lòng mẹ chứ? Xa hơn, còn có quán tính của tín ngưỡng trong chọn lựa đó nữa. Tín ngưỡng dân gian của ta tràn ngập những nữ thần và niềm tin đó còn thể hiện cả ở những tôn giáo du nhập từ ngoài. Chúng ta có bà Chúa Liễu Hạnh, bà Hoả, bà Thủy và, trong khi người Ấn chỉ có Phật ông, chúng ta lại có thêm Phật bà: Quán Thế Âm Bồ Tát, khi vào đất Việt, đã trở thành Phật bà Quan Âm. Chưa kể một danh sách của những Phật bà đầy “bản sắc dân tộc”, từ Phật mẫu, tức con gái nàng Man đến Quan Âm Thị Kính, còn gọi là Quan Âm tống tử; từ Quan Âm Diệu Thiện, tức Bà chúa Ba, cho đến Bà Bụt chùa Dâu, v.v... Với một truyền thống tín ngưỡng như thế thì khi chọn một đấng hộ thần, ai cũng có khuynh hướng thiên về một bà hay một cô như là quán tính của tín ngưỡng và của suy nghĩ.

Quán tính của suy nghĩ nghĩa là... không cần suy nghĩ. Cần có một vị thần để thờ thì dù không tên, không lai lịch, chí ít, thần đó cũng phải có một cái danh chung chung theo thứ hạng để mà.. tồn tại: không “cô Ba” thì cũng “cô Hai”, “cô Tư”, hay “cô Năm”, “cô Sáu”. Một khi đã vớ sảng như thế thì cũng phải vớ sao cho tiện miệng, cho trơn tru, cho dễ phát âm và chợt, trong cái dải dài “Cả, Hai, Ba, Tư, Năm, Sáu, Bảy, Tám, Chín, Mười” ấy, “Ba” đã trở thành đáp số tối ưu. Đứa bé có bập bẹ tập nói, nó cũng bập bẹ chữ “ba” trước tiên và, một cách ngẫu nhiên, cô Ba trở thành hộ thần của đám đệ tử biếng suy nghĩ, biếng cái sự mỏi miệng trừ khi chửi thề. Cô Ba, trong cảnh đó, đã trở thành một hộ thần không tên, không cội nguồn và không bản sắc. Và cũng trong cảnh đó, sở thích của cô cũng phải phù hợp với sự tiện lợi và sở thích của bầy đệ tử lanh liều. Cô không ăn chay nằm đất mà cô chén toàn món đồ mặn. Và cô chỉ chén những gì tiện nhất, dễ kiếm nhất nhưng cũng từng được xem là sang nhất từ sâu trong “truyền thống” của một xứ nghèo. Tú Xương nghèo nhưng Tú Xương sang cả “con lính tính quan”. Và Tú Xương, trong thơ, tưởng tượng cảnh mình xơi toàn “heo quay, lạp xưởng”. Cô Ba cũng sang cả thế và, mỗi tháng một cữ, từ trên bàn thờ ngập ngụa khói nhang, cô tha hồ tận hưởng cái món ăn sang theo truyền thống mà đám đệ tử bặm trợn kính cẩn dâng lên.

Khi con người cảm thấy lơ láo và bất an, khi con người phải đối diện với cái sự hoạ phúc khó lường, họ càng cần một chỗ dựa tâm linh. Không phải ngẫu nhiên mà những nghề nghiệp phụ thuộc thiên nhiên nhất, phụ thuộc vào vào sự may rủi nhiều nhất, như nghề rừng và nghề biển chẳng hạn, lại là nghề quan tâm đến chuyện cúng bái nhiều nhất. Thì cứ cho là điều đó bắt nguồn từ cái mặc cảm phá sơn lâm hay đâm hà bá, thế nhưng, nguyên nhân chính vẫn là tâm lý bất an của một nghề nghiệp bất an khi tai hoạ có thể ập đến bất cứ lúc nào. Mà hễ đời sống càng bất trắc hơn thì những niềm tin càng vỡ vụn nhiều hơn. Cứ nghe những than phiền về tình trạng mê tín trong giới đảng viên, những kẻ mà, danh chính ngôn thuận, phải là những đấng vô thần: đất nước nằm trong sự định đoạt của họ và, phần lớn, sự định đoạt ấy lại nằm trong tay bọn thầy bói hay thầy phong thủy. Nghịch lý đó, xét cho cùng, cũng tự nhiên thôi bởi, dù vô thần, những đảng viên cộng sản cũng là những kẻ cực kỳ mê tín. Họ mê tín trước lãnh tụ. Họ mê tín trước những giáo điều. Họ đặt trọn niềm tin vào những con người phàm tục đến độ cho rằng những con người ấy không có khả năng để phàm tục hay để làm chuyện tầm thường. Và, trong phiên chợ tàn ý thức hệ, khi những thứ tầm thường đã lộ mặt tầm thường thì họ phải vớ quàng vớ xiên cái gì đó để bám víu, để tin, để giải toả cái tâm trạng bất an của mình chứ? Không chỉ ở đám đệ tử phạm pháp của cô Ba, không chỉ ở những đảng viên vô thần, tình trạng vỡ vụn và manh mún của tín ngưỡng đó đã thể hiện trên mức độ toàn cầu với sự xuất hiện của hàng ngàn giáo phái tạp nham, lớn nhỏ khác nhau, xuất hiện như những biến tấu lạc loài từ những tôn giáo đã có mặt ngàn đời. Những giáo phái con con như thế xuất hiện mỗi ngày mỗi nhiều, nhiều đến độ đếm không xuể, từ Davidian Branch đến Aum Supreme Truth, từ Sukuyo Mahikari đến Temple of Vampire, Wicca, Ralian v.v..

Đó, có lẽ, là hậu quả của sự khủng hoảng về tinh thần và một sự mất cân bằng về tín ngưỡng. Cứ mỗi lần nhân loại gặp một cuộc khủng hoảng lớn về tinh thần là một lần có thêm tôn giáo xuất hiện. Và mỗi lần họ bị khủng hoảng về niềm tin là một lần những tôn giáo đó được “cải cách”, được “chấn hưng” hay bị chia năm, chia ba. Cứ sau những chu kỳ cân bằng và mất cân bằng như thế, tôn giáo càng được cải cách hay chia rẽ và do đó, càng thêm khởi sắc hay càng thêm hỗn loạn.

Trong tình trạng “cân bằng” thì con người cảm thấy bằng lòng với những quyền năng siêu nhiên mình đang trông dựa. Nhưng càng phát triển thì xã hội càng nẩy ra những nhu cầu mới, những gánh nặng vật chất mới kèm theo những áp lực tinh thần mới thật là cụ thể. Trong khung cảnh thay đổi với tốc độ chóng mặt đó, nếu chỗ dựa tâm linh cổ điển vẫn cứ rề rà dẫm chân tại chỗ, vẫn man mác siêu hình hay tệ hơn là thoái hoá và sa đọa thì, cách này hay cách khác, tín đồ phải hướng tới những nhu cầu giải toả mới. Họ cần một lời khuyên cụ thể, mang tính chất ăn liền cho một cảnh ngộ cụ thể, trong khi đó, giới tăng lữ cứ nhai đi nhai lại mấy lý thuyết siêu hình chán phèo. Họ đến với nơi thờ phượng trang nghiêm để tìm quên cảnh đời cạnh tranh bát nháo thì lại gặp cảnh cạnh tranh bát nháo, bị chính trị hay thương mại hoá cái sự thờ phượng. Chính tình trạng hụt hẫng hay vỡ mộng này là cơ hội làm ăn của những giáo phái mới biết đáp ứng những nhu cầu mới. Là những tay chơi mới, họ nắm được nhu cầu mới. Và để chen chân vào sân chơi cũ, họ lại bám vào quán tính cũ. Vươn tới cái mới và bám vào cái cũ, họ lại tạo ra những món nộm tín ngưỡng sỗ sàng nhưng khá là dễ xơi. Cũ, họ có “vô vi”; tầm tầm chẳng mới chẳng cũ, họ có... điện, cái dòng dịch chuyển của những hạt electron hay các ion, âm hay dương; mới, họ có cloning, của khoa sinh vật học phân tử [1] Rồi lời của Phật chen lời Jesus Christ hay Mohammed trong cái lưỡi của những thượng sư, sư phụ, hay bình dân hơn là thầy, những kẻ vẫn đều đặn tiêu hoá và bài tiết như bất cứ con người phàm tục nào nhưng lại được tôn sùng như những bậc không biết thế nào là những khó khăn trục trặc của nhu cầu bài tiết.

Và trong cái rừng nấm hỗn nguyên của tín ngưỡng đó chúng ta thấy cả hình ảnh lẻ loi nhưng độc đáo của cô Ba. Cô tận tình một chuyến, đệ tử đổi đời triệu phú. Cô vô tình một chuyến, đệ tử tin những bàng hoàng. Khác với những đạo nhìn xa trông rộng với sự giải thoát đời đời, “đạo” của cô thực tế hơn nhiều khi chỉ hướng đến sự “cứu rỗi" theo đơn vị đoạn đời. Thì, đời đời hay chỉ một đoạn đời cũng là cứu rỗi, cũng là đường, là đạo, cũng là... tôn giáo thế thôi. Tôn giáo, theo Karl Marx, là thuốc phiện của quần chúng, là thứ đã ru ngủ họ, làm thui chột ý thức đấu tranh của họ. Còn “tôn giáo” của cô, của những kẻ nuôi mộng làm giàu từ chế phẩm của thuốc phiện này là thuốc phiện của ai?

Trả lời câu hỏi này, xem ra, rất dễ mích lòng đám đệ tử bặm trợn. Khi công cuộc “nghiên cứu cô Ba” của tôi chỉ mới mon men đi xa ở khoản gia vị, cố tìm hiểu xem là trong đĩa nước tương dâng kèm để cô dùng với thịt quay có được đâm ớt và tỏi hay không, đệ tử cô đã quắc mắt giận dữ, sừng sộ bảo rằng tôi hỏi xấc.

Trời, tôi quan tâm đến miếng ngon của cô mà bảo là tôi xấc, logic ở chỗ nào?

© 2006 talawas


[1]Khái niệm này được giáo phái Ralian của Claude Vorilhon sử dụng. Giáo phái này cho rằng thủy tổ của nhân loại được tạo nên từ phòng thí nghiệm sinh học của người da xanh, giống người ở đâu đó trên dải Thiên hà và được tạo nên bằng kỹ thuật “cloning”; rằng Giáo chủ Vorilhon đã từng bước lên dĩa bay của người da xanh để bay ra một hành tinh “tiền trạm” nào đó, nơi ông ta được mời “dùng bữa thân mật” với Jesus Christ, với Mohammed và Phật Thích Ca. Nói như thế mà Vorilhon vẫn thuyết phục được gần 60,000 tín đồ trên khắp thế giới tin răm, tin rắp, sẵn sàng dâng hiến tiền bạc, dâng luôn con gái trinh cho mình tận hưởng.