trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
  1 - 20 / 482 bài
  1 - 20 / 482 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Văn họcThơ và Thơ Trẻ
21.4.2006
Bùi Vĩnh Phúc
Biệt khúc cho Thanh Tâm Tuyền
(Đọc lại Thơ ở đâu xa)
 1   2 
 
3.

Ðọc thơ Thanh Tâm Tuyền, những ngày xưa, thời ông còn đầu cao mắt sáng vào đời, ta đi vào đời bằng thơ tự do, bằng sự cởi bỏ tất cả những lề luật, những khuôn mẫu trói buộc, những thể thức mệt nhoài, để lên đường đi tìm một dải đất mới, đến những ngày ông đi vào giữa cơn lâm luỵ và vượt lên, vượt qua hết tất cả những gian truân, xót xa, đau khổ, với sự chịu đựng, nhẫn nhục, kiên cường và thơ mộng của mình, tôi cảm thấy yêu thương ông thật nhiều. Sau những ngày giương cao ngọn cờ của tuổi trẻ để đi tìm và khám phá cho mình một dải đất mới, ông đã trở về với những gì thâm trầm, u nhã, cổ điển, đằm thắm và sâu xa nhất trong những vẻ tầm thường và giản dị của nó. Ông dùng lại những thể thức cũ, nhưng cái ngôn ngữ và tinh thần khai phá, làm nên con người của Thanh Tâm Tuyền, vẫn luôn còn ở đấy. Trong khoảng trên mười lăm năm tỵ nạn ở Mỹ, ông đã giữ lại cho mình sự im lặng. Lúc ấy, thơ trở thành vô thanh. Giờ đây, ông thực đã đi hết con đường trần gian của mình.

Ðọc lại hầu như tất cả những bài thơ của ông, từ những ngày xa xưa, cho đến những bài cuối cùng mà ông đã làm, tôi thấy rõ Thanh Tâm Tuyền là một thi sĩ, đã hẳn, tôi còn thấy ông giống như một nhà tiên tri. Ông đã nhìn thấy những điều trước khi chúng xảy ra. Chẳng hạn khi ông viết, trong Liên-Ðêm-Mặt trời tìm thấy, đoạn 4:

(...)
Chúng tước lấy tiếng nói
Giam tôi trong bóng tối
Tôi khóc không ra lời
Và tôi đi lang thang

Tôi đi tìm tiếng nói
Cho cổ họng của tôi

...
Tôi nhìn người tuyệt vọng
Tôi nhìn người khẩn cầu
Linh hồn tôi rách nát
Lời nói còn ở đâu ...

Bây giờ, sau “thời đại động”, chúng ta đã thấy ra là những điều ông viết chính là từ một cái nhìn linh cảm, nếu không muốn nói là tiên tri, về sự thực. “Thi sĩ”, trong tiếng La-tinh, là “Vates”, một nhà tiên tri thấu thị, nhìn ngắm và chiêm nghiệm các tư tưởng siêu nhiên về vũ trụ, về thế giới; đồng thời, từ này cũng mang nghĩa “sáng tạo” trong nó. Tất cả mọi thi sĩ, nhìn ở một khía cạnh nào đó, đều là những nhà tiên tri. Nhưng với Thanh Tâm Tuyền, tôi thấy điều đó lại càng đúng. Chỉ có điều, ông không phải là một nhà tiên tri sống xa rời quần chúng, xa rời con người. Ông đã sống lăn lộn giữa chúng ta, cùng khóc cười hò hét hân hoan cũng như đã cùng chảy những giọt lệ sầu thảm với tất cả mọi người. Ông đã đi vào cơn lâm luỵ, và rồi đã đi ra khỏi nó, có lẽ, cũng với rất nhiều xót xa và đau khổ. Như rất nhiều người trong chúng ta. Có lẽ, qua những cuộc lâm luỵ của mình, ông cũng đã được thanh tẩy, như một số người trong chúng ta đã tìm thấy điều đó. Và ông đã để lại những bài thơ. Những bài thơ có lẽ là những bằng chứng đẹp đẽ nhất về một cuộc đời tha thiết mà ông đã đi qua. Và đã để lại. Nó có như một tấm áo mà người ta có thể cởi ra và để lại với đời?

Tôi chợt nhớ đến Almustafa, kẻ tiên tri của Kahlil Gibran. Ngày rời bỏ thành Orphalese để về trở lại hòn đảo, nơi người đã chào đời, Almustafa đã nghĩ gì?

Làm sao ta có thể ra đi thanh thản, bình an, mà không chút buồn đau? Làm sao ta có thể rời bỏ thành phố này để lên đường mà không phải gánh chịu một vết thương trong hồn mình?
Dài làm sao là những ngày khổ đau mà ta đã gánh chịu giữa những bức tường thành này, và dài làm sao là những đêm tối cô đơn. Có kẻ nào lại có thể đang tâm rời bỏ những nỗi đau và sự cô đơn của mình mà không xót xa nhớ tiếc?

Biết bao nhiêu mảnh hồn mình ta đã thả vung vãi trên các đường phố này, và biết bao nhiêu những đứa con của khát vọng ta đã bước đi trần truồng giữa những ngọn đồi này. Ta sẽ không thể rời xa chúng mà không cảm thấy nặng lòng đau đớn.

Chẳng phải là một tấm áo mà ta cởi bỏ ra ngày hôm nay, nhưng đó là một lớp da mà ta tự tay lột xé.

Chẳng phải là một ý tưởng mà ta bỏ lại phía sau, nhưng là một trái tim mà đói khát đã làm cho trở thành dịu ngọt. [1]

Có phải thế không, hỡi người thi sĩ. Có phải là Thanh Tâm Tuyền cũng đã từng có tâm trạng như thế trước khi ra đi. Trước khi lên đường trở về nơi mà từ đó ông đã đến với chúng ta, với cuộc đời này.


4.

Thanh Tâm Tuyền, cuối cùng, cũng đã thực hiện được cuộc lên đường có lẽ cũng đầy khó khăn của mình như kẻ tiên tri kia. Và cũng như mỗi một chúng ta, có thể ông cũng còn có quá nhiều thiết tha yêu dấu đứng bên đời vẫy gọi mà ông-cũng như mỗi một người trong chúng ta-cảm thấy vẫn chưa trả hết ân tình. Người thường đã vậy, một nghệ sĩ, một nhà thơ có thể còn đầy ắp những nỗi thiết tha hơn. Mong là cuộc ra đi, hay cuộc trở về, của ông giống như những gì ông đã nhìn thấy, như trong một tấm tranh, mà ông đã viết để tặng một người bạn hoạ sĩ nhiều năm trước:

Trở về dịu dàng điệu màu sắc
Vàng xa gợn gió rét hoang mang
Xanh thất thần xanh ngây hạnh phúc
Mặt tình nhân tươi rói kinh hoàng

Trên lối mòn quanh chìm bất giác
Gió bay lả tả bụi thời gian
Thanh thoát cơn say rũ tro mộng
Rừng đêm bùng cháy rỡ mây hồng.

(“Bài tặng hoạ sĩ”)

Thi sĩ, hãy lên đường thanh thoát. Thanh thoát như những tiếng mưa rơi rất nhẹ ngày xưa, ta cười đổ mưa một mình, trong những buổi sớm mai Sài Gòn rất nhiều bóng lá. Em là lá biếc là mây cao là tiếng hát / Sớm mai khua thức nhiều nhớ thương. Thanh thoát như những tiếng kèn đồng tinh khôi ta thổi cho cuộc lên đường.

Thanh Tâm Tuyền, lần cuối, xin từ biệt anh.

Hãy khép mắt khép mắt thật khẽ
Có thấy chúng ta rơi vào giấc ngủ sâu vào những giấc mơ
Hương hoàng lan lẫn mái tóc người yêu... [2]

Tustin Ranch, Calif.
30.III.2006

Nguồn: Tạp chí Văn, California, tháng 5 & 6.2006 (số đặc biệt về Thanh Tâm Tuyền). Bản đăng trước trên talawas với sự đồng ý của tác giả và tạp chí Văn.


*



Vài bài thơ nên đọc thêm trong tập Thơ ở đâu xa trước khi chấm dứt bài này

chiều nắng hanh
trên đồi hương nhu

Tuốt những chùm bông hạt già úa
Ðộng nhánh cành trơ trụi xác xơ
Hè cháy rụi sót hoa nám lửa
Chiều gió hanh con mắt im ngơ

Thoáng hương gắt bắt nhớ tha thiết
Mái tóc ẩm dầy đầu thềm rũ hong
Ðồi đột ngột rực nắng mê mệt
Ðêm lạnh về thao thức theo trăng.


ngã trên núi việt hồng
ở yên báy
khi đi vác nứa

Tuột dốc té nhào trên hẻm núi
Chết điếng toàn thân trong giây lâu
Mưa rơi đều hạt mưa phơi phới
Ngày đang tàn hiu quạnh rừng sâu

Duỗi xoải chân tay gối trên nứa
Ngó trời nhá nhem nghe mưa mau
Tưởng chừng thi thể ai thối rữa
Hồn viển vông chẳng chút oán sầu

Mưa giăng tấm lưới trắng dầy khít
Làng xóm dưới núi ở phương nào?
Gió lạnh tái tê bó liệm chặt
Lả thiếp người quên bẵng xước đau

Ðầm mình trong hạnh của ẩn mật
Mắt hoen nhoà hứng giọt thiên thâu
Dò dẫm lối về đêm tối mịt
Sông xa núi thẳm quê nhà đâu?


bài ru tháng năm

Tháng Năm mưa núi nhộn nhịp phố
Khúc dạo xanh tươi mở vào hạ
Hè cao nguyên chín mùi độ xuân
Dòng nhạc tuôn tràn điều niềm nở

Tháng Năm nắng trong ủ mật hương
Óng biếc sau mưa những rừng thông
Thiếp mê tình tứ trên đồi cỏ
Ngày nhởn nhơ khoác áo huy hoàng

Tháng Năm nườm nượp gió xa lạ
Rủ rê mặt trời về hớn hở
Trong vườn nhốn nháo giọng trăm miền
Ngất khuya còn nỉ non hàn huyên
Tháng Năm ghé tạt cánh bão tố
Giông trốt buông thùa đến suồng sã
Thú dữ từng bầy động cỡn đêm
Hoan lạc reo quần thảo rừng điên

Tháng Năm về dặt dìu quên nhớ
Mưa sao trút sáng biển soi im
Tháng Năm về nhặt khoan điệu cũ
Mây bão xô lồng trăng lênh đênh

Tháng Năm về đong đưa tâm sự
Võng đưa trầm bổng vực thời gian
Tháng Năm về du dương sầu khổ
Sinh nhật con mẹ khóc mơ màng

5/81



[1]Thơ Kahlil Gibran:
“How shall I go in peace and without sorrow? Nay, not without a wound in the spirit shall I leave this city.
Long were the days of pain I have spent within its walls, and long were the nights of aloneness; and who can depart from his pain and his aloneness without regret?
Too many fragments of the spirit have I scattered in these streets, and too many are the children of my longing that walk naked among these hills, and I cannot withdraw from them without a burden and an ache.
It is not a garment I cast off this day, but a skin that I tear with my own hands.
Nor is it a thought I leave behind me, but a heart made sweet with hunger and with thirst...”
(Kahlil Gibran, The Prophet. New York: Alfred-A-Knopf, 1979. Phần tiếng Việt tại đây do tác giả bài này dịch.)
[2]Những câu thơ trong bài, in nghiêng, không ghi chú thích, là thơ của Thanh Tâm Tuyền.