trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
  1 - 20 / 3021 bài
  1 - 20 / 3021 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z


2.11.2008
LÆ°u Linh

Em là Lưu Linh, nguyên wán ở diễn đàn VNCR, một diễn đàn nhỏ so với diễn đàn Ta Là Ai. Nhờ có ngừ mách bảo em nên theo dõi diễn đàn Ta Là Ai để có thể học hỏi được nhiều điều hay. Thiệt là đúng như ngừ ta nói, chỗ ni toàn là bậc chân nhân tu đắc đạo.

Đọc bài của tiền bối Hoàng Ngọc-Tuấn, “Một wái trạng văn hóa” niêm yết ngày 17-10-2008 nói về những sai trái trong các bài viết của tiền bối Hoàng Ngọc HiếnTrịnh Lữ về “hậu hiện đại”, em cứ đinh ninh là những bài viết kế tiếp sẽ tranh luận về đề tài “hậu hiện đại” trong bối cảnh trong nước hay ngoài nước. Tiếc thay, em hổng thấy và chưa thấy được những gì về đề tài “hậu hiện đại” ngoài những lời trao đổi đốp chát và đôi khi chanh chua nữa. Em wá ư là thất vọng.
 


2.11.2008
Minh Ngọc

Phản hồi của Trần Ngọc Vương khiến tôi phì cười. Phì cười ngay ở câu đầu, có đoạn:“bác Hiến không bày sẵn tư liệu trước mặt. Đuổi bắt ý tưởng, bắt được rồi thì ‘diễn’ nó ra.”

Nếu thế thì bác Hiến còn vướng thêm một thói xấu là chủ quan, không cần kiểm chứng cho kỹ trước khi viết xuống, trước khi phát biểu, trước khi “diễn nó ra”. Một nhà nghiên cứu có uy tín, có tiếng tăm mà còn cẩu thả, lười lĩnh như thế thì việc ông Hoàng Ngọc-Tuấn phê bình ông Hoàng Ngọc Hiến như thế còn gì để chống chế.

Đọc phản hồi của Giang về chuyện dịch thuật, tôi trố mắt kinh ngạc vì không thể tưởng tượng có người lại “dũng cảm” đến thế. Discourse mà dịch thành giáo trình thì muốn dịch thế nào lại không được nhỉ?

Discourse
theo Merriam-Webster:

1 archaic : the capacity of orderly thought or procedure : rationality
2: verbal interchange of ideas ; especially : conversation
3. a: formal and orderly and usually extended expression of thought on a subject; b: connected speech or writing c: a linguistic unit (as a conversation or a story) larger than a sentence
4 obsolete: social familiarity
5: a mode of organizing knowledge, ideas, or experience that is rooted in language and its concrete contexts (as history or institutions) discourse>

Theo Oxford:

noun /diskorss/ 1. written or spoken communication or debate. 2. a formal discussion of a topic in speech or writing.
verb /diskorss/ 1. speak or write authoritatively about a topic. 2. engage in conversation.
— ORIGIN Latin discursus ‘running to and fro’, from discurrere ‘run away’.

Nguyên bản: The antitheoretical polemic is one of the characteristic genres of theoretical discourse... an inevitable dialectical moment within theoretical discourse, the moment when theory's constructive, positive tendency generates its own negation.

Được ông/bà Giang dịch thành: Các luận điểm phản lý thuyết là một trong những thể loại đặc biệt của các giáo trình lý thuyết… một yếu tính biện chứng không tránh được trong giáo trình lý thuyết, cái yếu tính mà khi lý thuyết có đặc tính thiết đặt, khuynh hướng xác định lại sinh ra sự phủ định của chính nó.

Characteristic
là gì mà biến thành “đặc biệt”? Ở đâu mà ra “có đặc tính thiết đặt” thế? Chẳng nhẽ “theory’s constructive” là “đặc tính thiết đặt”?

Characteristic
lại là “đặc biệt” nhưng không hề có characteristic thì lại thành “đặc tính”?

Quả đáng để kinh ngạc.

Tôi thấy thất vọng khi có khá nhiều ý kiến mang tính “tung hỏa mù”, cố tình bẻ mạch chuyện ông Hoàng Ngọc-Tuấn phê bình ông Lữ và ông Hiến sang chuyện bới móc cá nhân, than phiền “khó hiểu”, chặt xẻ ngôn từ, “biến chín làm mười”. Tôi tin ngoài cái “quái trạng” mà ông Tuấn đưa ra còn có vô số “quái trạng” lớn nhỏ xung quanh cái gọi là “văn hoá thảo luận”.
 


2.11.2008
Đinh Bá Anh

Hoàng Ngọc Hiến viết: “Tôi được biết thời Đức Quốc xã, đa số, nếu không phải là tuyệt đại đa số, trí thức Đức theo Hitler, nhưng tôi chưa thấy ai nói trí thức Đức là 'hèn’. Có lẽ vì dù sao họ cũng có một Bertolt Brecht. Đánh giá giới trí thức, câu hỏi 'những ai là người dũng cảm’ quan trọng hơn rất nhiều câu hỏi 'những ai là người hèn’."

Khi Hitler lên cầm quyền, một bộ phận rất lớn giới trí thức Đức-Áo đã không ủng hộ. Đó trước hết là giới trí thức cánh tả, giới trí thức cộng sản và giới trí thức gốc Do Thái. Hàng trăm nghìn nhà khoa học, nhà văn, đạo diễn điện ảnh, nhà báo, giảng viên đại học,… đã tháo chạy sang Thụy Sĩ, Anh và Mỹ. Đó là Albert Einstein, Ludwig Wittgenstein, Karl Popper, Friedrich von Hayek, Theodor Adorno, Thomas Mann, Bertolt Brecht,… và hàng trăm trí thức nổi tiếng khác. Những người ở lại, chỉ rất ít thực sự ủng hộ Hitler và lý tưởng phát-xít, dù họ là tả hay hữu. Martin Heidegger có lẽ là một ngoại lệ tai tiếng nhất, mặc dù thời gian ông thực sự cộng tác với Quốc xã chỉ kéo dài vỏn vẹn có 1 năm (1933-1934). Dĩ nhiên, nếu Hoàng Ngọc Hiến cho rằng bất kì ai làm công chức hoặc có bằng đại học đều là trí thức, và những người này ủng hộ Hitler chỉ vì ban đầu họ muốn yên thân và sau đó thì không có bất kỳ cơ hội nào chống lại bộ máy khủng bố của Hitler nữa, thì ông đúng phần nào. Song nếu coi giới trí thức là bộ phận tinh hoa của dân tộc, thì sai. Bởi tuyệt đại đa số giới trí thức tinh hoa nhất của dân tộc Đức thời đó đều dứt khoát chống lại Hitler.

Hoàng Ngọc Hiến chưa thấy ai nói giới trí thức Đức là “hèn" ư? Sao lạ vậy? Lẽ nào một dân tộc giàu óc phê phán như dân tộc Đức lại không thể tìm đâu ra một người dám kết án giới trí thức của nước họ là “hèn" hay sao? Toàn bộ cuộc sám hối của giới trí thức Đức sau Chiến tranh Thế giới thứ Hai là gì, nếu không phải là một cuộc “tổng sỉ vả" chính mình? Mà sỉ vả chính mình là gì, nếu không phải là tự trách mình “hèn"? (Không lẽ trách mình “dốt" hoặc "ngây thơ"?) Để tránh nói mà không có bằng chứng, nhưng cũng không muốn trích dẫn dài dòng, xin mời Hoàng Ngọc Hiến tự google để tìm ra các tác giả (rất nổi tiếng) nói giới trí thức Đức "hèn".
 


1.11.2008
Nhã Nam

Thay máu cho báo chí Việt Nam?

Vụ Tổng biên tập Lý Tiến Dũng (con trai của giáo sư Lý Chánh Trung, một trí thức Công giáo thuộc "thành phần thứ ba" trước 1975, cũng bị thất sủng dưới chế độ cộng sản vì bài viết "Triết học Mác-Lê Nin, một môn mà thày không muốn dạy, trò không muốn học" - theo nhà báo Nguyễn Quốc Thái, thư kí toà soạn báo Doanh Nghiệp, trả lời RFA) của báo Đại Đoàn Kết vừa bị thải hồi đã làm rúng động làng báo sau một loạt vụ thanh trừng báo chí Việt Nam. Người kế nhiệm tiếp theo là ông Đinh Đức Lập, một cựu Trưởng ban Tư tưởng Trung ương Đoàn và hiện là Giám đốc Trung tâm Đào tạo Cán bộ của Mặt trận.

Trả lời phỏng vấn của BBC ngày 27/10, ông Lập mạnh miệng tuyên bố "Việc thay đổi chỉ nhằm nâng cao thêm chất lượng tờ báo. Chúng tôi đánh giá thời gian qua, Đại Đoàn Kết không hay bằng trước, trong khoảng sáu năm trở lại đây. Tờ báo cần phải hay hơn, mạnh mẽ hơn nữa." Ông cho biết ông "bất ngờ" khi được chọn để về nắm tờ báo vì đây là quá trình "được bàn thảo rất nhiều", "Nhưng tôi nghĩ đây không phải là việc quá sức với tôi," ông Lập nhấn mạnh. Còn hai ông Tổng biên tập và phó Tổng biên tập bị cách chức là do vi phạm Luật Báo chí (!)

Ông Lập được Tổng thư ký Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Vũ Trọng Kim bổ nhiệm giữ chức Quyền Tổng biên tập báo Đại Đoàn Kết từ ngày 1-11. Ông đã nhận quyết định bổ nhiệm là lãnh đạo mới của một tờ báo trung ương. Điều này sẽ khiến báo chí trong nước bàng hoàng vì cánh nhà báo không lạ gì tư cách của ông. Báo điện tử VnExpress (đăng lại từ báo Lao Động) năm 2001 đã từng phanh phui việc ông này sử dụng bằng giả dưới thời ông Vụ Trọng Kim làm bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn TNCSHCM. Bài báo nêu rõ: "Trong đợt xét nâng lương tại Trung ương Đoàn năm ngoái, Trưởng ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương Đoàn Đinh Đức Lập 'bỗng’ có 2 tấm bằng mới: bằng trung cấp chính trị và chứng chỉ ngoại ngữ A. Với 2 'lá bùa’ này, ông Lập nghiễm nhiên được nâng lương, chuyển từ chuyên viên lên chuyên viên chính. Ông Nguyễn Văn Lùng, một người công tác ở Ban cho hay: 'Tôi rất bất bình vì đã công tác với ông Lập lâu nay mà có thấy ông học trung cấp chính trị hay ngoại ngữ đâu’. Ngày 18/7/2000, ông Lùng làm đơn gửi Ban kiểm tra Đảng ủy cơ quan Trung ương Đoàn.
Ngày 24/10/2000, Phó Bí thư Đảng ủy cơ quan Trung ương Đoàn Nguyễn Đình Lượng đã ký công văn gửi Chi bộ Ban Tư tưởng khẳng định: 'Việc làm của ông Lập là sai. Yêu cầu ông Lập làm kiểm điểm và Chi bộ tiến hành xem xét, quyết định mức độ kỷ luật Đảng’. Ngày 9/2 vừa qua, Ban Bí thư Trung ương Đoàn cũng ra thông báo đề nghị Ban Tổ chức Trung ương Đoàn thu hồi quyết định chuyển chuyên viên chính với ông Lập và truy thu số tiền chênh lệch mà ông Lập hưởng kể từ khi chuyển chuyên viên chính. Tuy nhiên, cho đến hôm 27/3, ông Lập mới chỉ bị phê bình, mà theo ông Lùng: 'Phê bình chưa phải là hình thức kỷ luật Đảng’".
(http://www.vnexpress.net/GL/Phap-luat/2001/03/3B9AF106/)

Việc ông Vũ Trọng Kim bổ nhiệm một cựu thuộc cấp từng sai phạm vào một chức vụ danh giá (Đại Đoàn Kết là cơ quan ngôn luận chính của MTTQVN) sẽ khiến giới báo chí trong nước chùn tay như đã để vụ việc năm 2001 chìm xuồng. Bài báo VnExpress nêu trên có thể sẽ bị gỡ xuống nay mai. Dư luận chỉ có thể nghĩ rằng báo chí Việt Nam đang phải "thay máu", sau báo Đại Đoàn Kết sẽ là các báo nào?
 


1.11.2008
Giang

Cả hai ông Hoàng Ngọc HiếnHoàng Ngọc-Tuấn đều có vấn đề, khi dịch một câu tiếng Anh mà hai ông đang mang ra để tranh luận.

The antitheoretical polemic is one of the characteristic genres of theoretical discourse... an inevitable dialectical moment within theoretical discourse, the moment when theory's constructive, positive tendency generates its own negation.

- theoretical discourse: Chữ này chỉ có nghĩa đơn giản là giáo trình, bài giảng lý thuyết. Thí dụ như Theoretical Discourse in Teacher Education hay là Authoritarian Rule and Democracy in Africa: A Theoretical Discourse.

Ông Hiến dịch là “lời lẽ lý thuyết” và ông Tuấn dịch là “hành ngôn lý thuyết” đều không chuẩn lắm.

- dialectical moment: Theo định nghĩa trong triết học, moment là phần tử tinh tuý, hay là một tiến trình cơ bản của tư duy (Philosophy. a. An essential or constituent element, as of a complex idea. b. A phase or an aspect of a logically developing process. [1] ).

Chữ này thường được thấy nhiều trong Biện chứng học của Hegel. Chẳng hạn như Hegel identifies three moments that together comprise logical thinking: moment of abstraction, dialectical moment and rational moment.

Ông Tuấn đã sai khi dịch moment là khoảnh khắc, còn ông Hiển thì không dịch.

- constructive: Trong luận lý học và toán học, contructive theory có nghĩa là lý thuyết được thiết lập bằng cách xác định những kết cấu (structure) rồi đến những quy luật, sau cùng là những phần tử cơ bản để tạo cho lý thuyết ấy được hình thành, dựa vào những quy luật và kết cấu trên. Như vậy constructive trong trường hợp này mang ý nghĩa (một lý thuyết có tính) thiết đặt. Thí dụ như constructive philosophy, constructive algebra, constructive approximation.

Ông Tuấn dịch là xây dựng (nhu xây dựng và phá hoại) còn ông Hiến thi… cho qua.

Bây giờ chúng ta thử dịch lại câu trên xem sao:

Các luận điểm phản lý thuyết là một trong những thể loại đặc biệt của các giáo trình lý thuyết… một yếu tính biện chứng không tránh được trong giáo trình lý thuyết, cái yếu tính mà khi lý thuyết có đặc tính thiết đặt, khuynh hướng xác định lại sinh ra sự phủ định của chính nó.




[1]Excerpted from The American Heritage Dictionary of the English Language, Third Edition Copyright © 1992 by Houghton Mifflin Company. Electronic version licensed from Lernout & Hauspie Speech Products N.V., further reproduction and distribution restricted in accordance with the Copyright Law of the United States. All rights reserved.