© www.talawas.org     |     về trang chính
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Nghệ thuậtMĩ thuật
Loạt bài: Đồ gốm cổ Việt Nam
 1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11 
23.6.2006
Bùi Ngọc Tuấn
Giới thiệu đồ gốm cổ truyền Việt Nam
 1   2 
 
Văn hoá của một dân tộc bao gồm bốn khía cạnh: sinh hoạt xã hội (phong tục, tôn giáo) -văn chương (truyền khẩu và văn viết) - nghệ thuật tạo thanh (âm nhạc, ca vũ) - và nghệ thuật tạo hình (hội họa, điêu khắc, kiến trúc). Những biến động lịch sử trong vòng trăm năm qua đã ngăn trở việc tìm hiểu sâu rộng nền văn hóa phong phú và thuần nhất Việt Nam. Trong vòng hai mươi năm gần đây, nhiều nhà nghiên cứu ở Úc, Tân Gia ba, Nhật Bản, Hương Cảng (như John Guy, John Stevenson, Mimoto Asako, William Willets, Keith Taylor, Barbara Harrisson, bà Kelly Nguyễn Long.., và của một số người Việt trong và ngoài nước (Hà Thúc Cần, Đào Duy Từ, Nguyễn Đình Chiến, Phillip Trương, Tăng Bá Hoành...) đã mạnh mẽ vạch rõ rằng văn hóa Việt dù chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa, nhưng thật ra lại là một nền văn hoá riêng biệt với những bản sắc khác hẳn Trung Hoa.

Nghệ thuật tạo hình của Việt Nam ít được nghiên cứu; Sách báo khảo cứu về đồ đồng, đồ đá thì còn khá, nhưng về đồ gốm thì không có mấy. Đồ gốm Việt Nam chỉ mới được tìm hiểu nhiều trong vòng mươi, mười lăm năm gần đây. Vì thế, số người Việt - trong và ngoài nước - biết và hiểu điều này còn rất ít, chỉ giới hạn trong số những nhà nghiên cứu hay sưu tập chuyên môn mà thôi. Bài viết ngắn này nhằm mục đích giới thiệu tổng quát một khía cạnh nhỏ của nghệ thuật tạo hình Việt Nam: Đồ gốm cổ truyền.

Dân tộc, văn hóa Việt khởi nguồn độc lập và song song với văn hóa dân tộc Trung Hoa. Nền văn hóa Hòa Bình (8,000BC), Bắc Sơn (6,000BC), Phùng Nguyên (2,000BC) và Đông Sơn (1,000BC) đã phát triển rực rỡ từ trước khi có những giao tiếp giữa hai dân tộc Việt, Hoa. (Nhiều trống đồng khai quật trong vài năm gần đây chỉ rõ nét đặc biệt, thuần Việt, phác họa lên cả một nền văn minh rực rỡ, với kỹ thuật điêu luyện). Cái nôi của văn hoá, dân tộc Việt quy tụ vào bốn vùng chính: (1) Châu thổ sông Hồng: Hoà Bình - Bắc Sơn - Hải Hưng - Vĩnh Phú - Hà Nội; (2) Duyên hải Bắc Việt: Hạ Long - Vân Đồn - Hải Phòng; (3) Thanh Hoá; và (4) Nghệ An - Hà Tĩnh.

Trong bốn môi trường văn hóa ấy, đồ gốm Việt Nam thành hình và phát triển rực rỡ. Mỗi vùng, mỗi thời kỳ có những nét đẹp, tùy theo vật liệu, tùy theo kỹ thuật và nghệ thuật riêng. [1] Chúng tôi giới hạn bài viết ngắn này vào những vật tích hiện có trong bộ sưu tầm riêng, cộng thêm sự tham cứu các sách báo xuất bản trong những năm gần đây. Chúng tôi tin rằng, trong những năm tới, nhiều cuộc khai quật quan trọng sẽ được thực hiện, nhiều vật tích đặc biệt sẽ được tìm thấy, giúp chúng ta hiểu rõ hơn về nền văn hoá dân tộc Việt và cũng sẽ làm thay đổi quan niệm, ý kiến và sự hiểu biết phổ thông hiện nay.

Trong những món đồ chúng tôi sưu tập, chỉ có vài món làm từ thời Bắc Thuộc, còn phần lớn là đồ làm từ đời Lý, đời Trần trở về sau (từ thế kỷ 11, 12 .. tới thế kỷ 15, 16, 17). Chúng tôi cũng sẽ giới thiệu một loại đồ đặc biệt khác là đồ men trắng xanh (thường được gọi qua tên 'Đồ men lam Huế' - hay phổ thông hơn là đồ 'Bleue de Hue') do vua quan Việt Nam họa kiểu riêng, đặt làm bên những lò gốm nổi danh bên Tàu. Khi sưu tập, hay tìm hiểu về đồ gốm Việt Nam, người ta vẫn lầm tưởng rằng đáng kể chỉ có đồ men lam Huế, bắt đầu từ đồ 'Nội Phủ' - và 'Khánh Xuân' của chúa Trịnh Sâm đặt, rồi tới tô, đĩa chữ nhật của các vua triều Nguyễn, hay đồ 'Mai Hạc' do Nguyễn Du đặt làm khi đi sứ năm 1813. [2]

Đồ gốm Việt Nam đẹp, đa dạng, phong phú và giá trị hơn cả là đồ thời Lý-Trần, phát triển mạnh mẽ từ thế kỷ 11-12, kéo dài đến cuối thế kỷ 16, với một số lượng lớn xuất cảng sang các nước Nam Thái Bình Dương, Nhật Bản, Đại Hàn, qua tận vùng Ả Rập từ thế kỷ thứ 7, mạnh mẽ vào thế kỷ 14-16. Một số đồ gốm Việt Nam đã rất được quý chuộng trong nghi lễ của Trà Đạo Nhật Bản từ cuối thế kỷ 15. [3]

Với tinh thần dân tộc mạnh mẽ, sau khi chấm dứt được một nghìn năm đô hộ của người Tàu, và tinh thần Phật Giáo ảnh hưởng mạnh mẽ suốt từ triều đình ra đến đại chúng, nhà Lý, với quyết tâm phát huy nền văn hoá thuần Việt (vẫn trường tồn qua nghìn năm lệ thuộc Trung Hoa) đã phát triển lên một nghệ thuật tạo hình riêng biệt Việt Nam rực rỡ, phong phú cũng như nền văn hoá Hòa Bình, Bắc Sơn, Đông Sơn trước đó. Người thợ Việt Nam đã tạo nên những dáng kiểu, sắc men và hoa văn rất Việt Nam, thể hiện một tinh thần sáng tạo rất phóng túng và phong phú. Nhiều thử nghiệm về sắc men, dáng kiểu, nhiều hoa văn đẹp lạ không thể thấy được ở văn hoá Trung Hoa vốn nhiều khuôn khổ gò bó.

Nghệ thuật tạo hình đặc sắc này của văn hoá Việt có thể tóm tắt qua các điểm chính: (1) Dáng kiểu, (2) Nước men, (3) Hoa văn và (4) Chất đất.

1. Dáng kiểu

a. Tô, chén, đĩa: Tô chén thường có chân khá cao. Nhiều bát nhỏ và đĩa nhỏ có hình con rùa hay cá nổi giữa lòng, khi đổ nước vào ta có cảm giác như nhìn xuống lòng giếng, lòng ao, thấy cá và rùa bơi ở giữa. Đĩa thời Chu Đậu khá lớn, rộng khoảng từ 25 tới 30cm. Đồ 'men lam Huế' có kích thước khá gần với các món đồ dùng hiện nay (đĩa Khánh Xuân Long Lân của Trịnh Sâm rộng 26cm, đĩa Mai hạc của Nguyễn Du, rộng khoảng 17cm...).

b. Lư hương, bát hương, chân đèn: Lư hương khá to, cao khoảng 25 - 40cm. Nhiều chân đèn hai hay ba tầng cao khoảng 75 - 85cm, dùng để cắm nến. Ngoài ra còn nhiều chân đèn dầu hình chim, hình gà. Nhà Lý vốn sùng đạo Phật. Khi dời kinh đô về Thăng Long, ngoài nhu cầu xây cất cung điện còn tạo dựng lên rất nhiều chùa chiền (Lý Công Uẩn vốn dựng nước từ dưới mái tam quan). Tiếc thay, nhà Minh đã phá hủy gần như hoàn toàn các công trình kiến trúc này; phần còn sót lại bị đốt phá năm 1784, bởi loạn Kiêu Binh dưới đời Trịnh Khải. Kế đó, khi lên ngôi, vua Gia Long không muốn Thăng Long lớn hơn kinh thành Huế, nên đã phá đi để xây lại thành mới, nhỏ hơn. Nguyễn Du, người chứng kiến cuộc đổi thay đã than rằng:

thiên niên cự thất thành quan đạo,
nhất phiến tân thành một cố cung

(Thăng Long)

dịch nghĩa:

nhà cổ phá đi làm đường phố,
thành mới xây trên nền cung xưa.

c. Bình, ấm, âu, hũ, bình vôi: Đủ mọi loại, đủ cỡ lớn nhỏ, sản xuất trong nhiều trăm năm. Có nhiều ấm hình chim, hình thú, hay có nhiều ấm mà vòi, quai là hình đầu thú. Có hũ nâu cao đời Lý khắc hình người, hình hoa, có hũ trắng ngà đời Bắc Thuộc vẽ hình voi và người như trên trống đồng Đông Sơn. Một trong loại bình rất Việt Nam là hình một con tôm càng đứng trên lưng con cá chép, ấm hình con cóc, bình hình quả dưa, lọ hình quả cà...

d. Hộp trang sức: Hộp nhỏ, thường là hình tròn, để đựng phấn hay dầu trang sức phụ nữ. Những hộp này có lẽ là để xuất cảng sang vùng Ả Rập nhiều hơn là để bán trong nước. Hộp đời Lý thường có màu trắng, trang trí hình hoa hay hình cánh sen nổi, đường kính độ 5, 6 cm. Hộp Lý nâu nhỏ có những nét trang trí mang ảnh hưởng Chiêm Thành. Hộp làm vào thế kỷ 14, 15, 16 thường màu trắng ngà, trơn, trên nắp vẽ hoa, cành màu chàm, hay vẽ hồi văn... Những hộp này nhỏ hơn, đường kính độ 3cm tới 6cm. Một số hộp tìm được trong khi khai quật mộ cổ ở Phi Luật Tân, Nam Dương. Một số lớn tìm được trong vài năm gần đây, khi vớt các xác tàu buôn cổ chìm ở Hội An, Đà Nẵng. Có những hộp màu xám đậm, có hộp hình bí ngô hay hình tròn, nhưng chung quanh chia làm nhiều phần (6 hay 8) trang trí, tạo nên ấn tượng là hộp thật sự có nhiều cạnh.

e. Gạch trang trí, ngói: Men trắng xanh, tìm thấy trên tường nhà thờ Hồi Giáo ở Nam Dương và ở mộ cổ ở Phi Luật Tân (cùng các ấm, bình, tô, đĩa Việt Nam). [4]

2. Nước men: Những điểm khác biệt chính giữa nước men của đồ gốm Tàu và đồ gốm Việt là: Nước men Việt thường rất mỏng, men pha loãng, tráng không đều, trong khi đó, nước men Tàu rất dày, bóng và đều khắp.

Lò gốm Việt có độ nung thấp, thường không ngấm sâu vào chất đất nên nhiều vật tích tìm được có những phần đã tróc mất men. (Lò gốm Tàu có độ nung rất cao, men bền). Chân đế và dưới đáy đồ Việt thường được để mộc. Dưới đáy thường được tô một lớp son nâu đậm (điểm không hề thấy trong đồ gốm Trung Hoa).

Tước men ngọc đời Lý
(Các hình trong bài chụp từ bộ sưu tập của Bùi Ngọc Tuấn)
Nước men Việt rạn tự nhiên, rất đẹp. Màu men thay đổi từ trắng ngà sang vàng hồng, nâu với rất nhiều sắc từ nhạt đến đậm, nâu đen, nâu đỏ, xanh cánh lục biếc, xanh chàm, xanh lam nhạt, xanh lam đậm. Ngoài ra, đồ gốm Việt Nam còn khác đồ Trung Hoa ở các điểm: (1) trong lòng tô hay đĩa thường sót lại các dấu in của con kê (dùng ngăn đĩa, tô chồng lên nhau khi nung) hay (2) trong lòng đĩa, tô khi men còn ướt, trước khi nung, thường bị cạo đi một vòng hình vành khăn để trơ lại đất mộc, và (3) miệng tô, đĩa cũng thường để mộc, không men. Đây là những cách đơn giản, để tránh cho các món đồ không bị dính chặt vào nhau khi nung. Ngược lại, người thợ Trung Hoa không bao giờ để trơ đất mộc ở chỗ nào, họ rất tỉ mỉ trong việc pha men, tráng men và xếp nung. Họ muốn món đồ được toàn hảo. Người thợ Việt thường chú trọng đến vẻ đẹp giản dị, tự nhiên, không bận tâm đến những tiểu tiết gò bó.

Men lam Huế, Đọi (tô) chữ nhật của vua Tự Đức, có bài thơ ‘Một thức nước in trời’
Một loại đồ gốm Việt Nam cần được nhắc tới là 'men Thanh Hóa'. Đây là một nước men được các nhà nghiên cứu ngoại quốc viết về khá nhiều, vì so với những loại, khác men Thanh Hóa dày, đều và đẹp, nước rạn nhỏ, chứng tỏ rằng người thợ Việt Nam ở Thanh Hóa trong thời kỳ này đã sử dụng một kỹ thuật rất cao trong việc chọn, pha tráng và nung men.

3. Hoa văn: Hoa văn thường được vẽ bằng sáu kỹ thuật chính:

a. Dùng khuôn mẫu in rập lên đồ mới nặn cho hoa văn in lên (nổi hay chìm) trước khi tráng men và nung (gọi là ám họa).

b. Dùng bút vẽ lên mặt đồ đã khô, trước khi tráng men và nung.

c. Tráng men màu nhạt, dùng dao nhỏ hay mảnh tre cạo bỏ men theo hình định trước, rồi dùng men màu đậm vẽ trong chỗ đã cạo, nhưng lại để chừa nét viền không men.

d. Ngược lại với cách trên. Tráng men màu nâu đậm lên toàn bình hay ấm, rồi dùng mảnh tre cạo theo hình định sẵn, tạo nên hoa văn màu nhạt, không men trên nền men nâu đậm.

e. Tráng men màu nhạt rồi nhỏ vài giọt men màu khác lên một hay vài chỗ, để cho giọt men này chảy tự nhiên.

f. Tráng men xong rồi nhỏ những giọt nước lên, hay tạt nước vào để nước làm men chảy loang, tạo nên những hình tự nhiên.

c, d, e và f là bốn kỹ thuật thuần Việt. Đồ gốm Trung Hoa không bao giờ được trang trí bằng cách này.

4. Chất đất: Đồ gốm Việt Nam dưới thời Bắc Thuộc (Nhà Hán) thường làm bằng đất sét, pha cát và vỏ sò hến nghiền nát. Sang đời Lý, nhiều món đồ không còn pha cát nữa, chất đất mịn hơn. Đồ Chu Đậu làm bằng kaolin trắng mịn. Đồ men ngọc (Celadon) đời Lý cũng khác đồ men ngọc Tàu ở chỗ chất đất không pha bột đá, đồ dày hơn, men mỏng, gõ vào tiếng kêu không thanh và không ngân lâu bằng.


Để phân biệt một cách tổng quát, ta có thể tạm xếp đồ gốm Việt Nam làm các loại đồ chính như sau:

1. Đồ thời Hoà Bình, Bắc Sơn, Đông Sơn

Không tráng men, nặn bằng tay với hình trang trí tạo nên do dây thừng và khuôn giỏ đan ấn lên, hay dùng mũi dao, mũi tre khắc những hình trang trí đặc biệt của văn hoá Việt thời này (hình kỷ hà như thường thấy trên trống đồng gọi là 'hồi văn', nhưng đơn giản hơn), làm bằng đất sét pha cát và vỏ sò hến nghiền nhỏ. Hình dạng thuần Việt hiện rõ ràng. Ðồ gốm Trung Hoa không làm hình voi hay vẽ hình voi. Ngược lại, ấm hình thú, ấm đầu voi, ấm vòi voi rất thường thấy trong đồ gốm Việt. [5]

2. Đồ thời Bắc Thuộc

Bàn xoay bắt đầu được dùng nhiều, dáng kiểu, hoa văn và nước men có ảnh hưởng đồ nhà Hán, pha trộn những nét Việt của văn hoá Đông Sơn. Có chum, vại to, vẽ hình voi, hình người đóng khố, tay cầm giáo, cầm cung…, làm bằng đất sét pha cát mịn. Để món đồ này bên cạnh đồ nhà Hán của Trung Hoa, ta nhìn thấy những nét giống và những nét rất khác của hai loại đồ gốm. [6] Loại đồ Việt Nam thường mỏng hơn và thường được nung với độ cao hơn đồ nhà Hán. Đồ nhà Hán thường có men xanh lục, đồ Việt Nam thường màu trắng, trang trí bằng men giọt xanh.

3. Đồ Lý-Trần

Những món đồ gốm dưới đời Lý-Trần gồm có các loại chính:

a. Đồ men ngọc (Celadon): Thường trang trí hình cánh sen, hoa sen do ảnh hưởng nhà Phật; hoa văn có khi ảnh hưởng nhà Tống (như ám họa hình 2, 3 hay 4 bé trai chơi trong vườn hoa); có khi Việt hóa (như ám họa hai lực sĩ đô vật đấu võ trong vườn hoa); có khi ảnh hưởng Ấn Độ (như tô trang trí toàn chữ Phạn). Nước men khá dày (nhưng so với đồ men ngọc nhà Tống thì vẫn rất mỏng). [7] Men ngọc thường có màu xanh rêu với rất nhiều sắc, từ màu ngọc xanh nhạt tới màu xanh rất đậm, gần như xanh đen. Nước men nhiều khi che mờ các ám họa ở đáy tô, chén. Đất sét mịn dùng có khi pha cát, có khi không, nhưng không hề pha đá nghiền như đồ men ngọc Trung Hoa [8] , do đó khi búng ngón tay lên tô, ta không nghe tiếng vang cao, trong và ngân lâu như thấy ở đồ men ngọc Tàu.

b. Đồ Lý trắng - Lý nâu - Lý lục: Đồ Lý trắng thường có ám họa hoa văn, không vẽ hình màu, men mỏng, khá đều, tiếng gõ thanh. Đồ Lý nâu thường là nâu đậm cả trong lẫn ngoài, nhưng cũng có nhiều tô, chén trắng trong, nâu ngoài. Hiếm hơn là đồ nâu da báo. (Sau khi tráng men nâu, người thợ nhỏ úp tô xuống, rồi nhỏ vài giọt nước lên chung quanh tô, giọt nước làm men nâu chảy loang xuống thành đốm da báo tự nhiên rất đẹp).

Bát Lý nâu
Những tô chén thời này, nhiều cái có men dày mỏng không đều, nhiều chỗ để men ướt chảy đóng thành từng giọt, từng vệt dày, đẹp mà phóng túng. Đồ Lý lục có màu xanh sắc từ nhạt đến đậm. Ám họa hoa sen, hoa cúc, hoặc có dấu con kê, hoặc có vành men cạo trong lòng. [9] Ảnh hưởng Phật giáo rõ rệt. Nhiều món phối hợp hình tượng cả ba nền văn hóa Việt - Hoa và Chiêm Thành. [10] Hũ bình loại này đẹp, gồm nhiều thứ, có hũ men trắng ngà, cao khoảng 35cm, đường kính 25cm, bên ngoài vẽ hình chim, hoa nâu đậm. Có ấm da trắng, da nâu hình tròn thường không vẽ hình mà có ám họa cánh sen hay vòi voi, vòi đầu gà, đầu thú, dạng con cóc, con gà, con chim, con nghê... Bình vôi thường có màu xanh nâu đậm. Có nghiên mực hình con cua rất sống động, khi nhấc mai cua lên, thì mình cua trở thành nghiên mực nhỏ.

c. Đồ Thanh Hóa: Thanh Hóa là một trung tâm sản xuất đồ gốm rất cổ, với những lò gốm ở các nơi như Bồ Xuyên, Bạch Bát, Ninh Giang… vốn chuyên làm đồ gốm suốt từ thời Bắc Thuộc. Một số người từ Thanh Hoá theo chân Lý Thái Tổ dời đô, dọn về bên bờ sông Hồng, gần Thăng Long, lập ra làng Bát Tràng. Những món thường được gọi là men Thanh Hoá cũng được làm vào khoảng thế kỷ 10 - 14 ở các lò gốm trong vùng. Những ấm, đĩa, tô chén thường có màu xanh nâu đậm, nước men đều, bóng, trong vắt, với nét rạn nhỏ, rất được quý chuộng. Kỹ thuật tráng men cao lộ qua tài tráng men trong như thủy tinh mà không thấy dày, rất thanh nhã, và hơn nữa còn cho thấy người thợ hoàn toàn làm chủ nước men của mình do cách biến đổi chất men pha để làm cho nước rạn to hay nhỏ theo ý muốn. (Những món đồ này có nước rạn thay đổi theo từng phần, từ trên miệng bình xuống phía dưới chân đế).

4. Đồ Chu Đậu: Trong các thế kỷ 14, 15, 16 xuất hiện một loại đồ (mà có người gọi là 'đồ trắng chàm') có nước men trắng với hoa văn màu xanh blue (màu chàm). Hình dáng và hoa văn đặc biệt Việt Nam, rất đẹp, men mỏng nhưng đều. Loại đồ này thường được xuất cảng sang Phi Luật Tân, Nam Dương, Ả Rập... từ thế kỷ 14 đến 16. Chu Đậu là một làng thuộc tỉnh Hải Dương. Vùng này xưa kia chuyên làm đồ gốm, nhưng sau khi kỹ nghệ đồ gốm ở tỉnh Hải Dương bị Trịnh Tùng tiêu diệt, họ chuyển sang dệt chiếu. Tên Chu Đậu được dùng không phải để chỉ những món đồ làm tại làng Chu Đậu, nhưng để chỉ những đồ cùng loại này. Thời Chu Đậu kéo dài mấy trăm năm, với nhiều lò gốm rải rác khắp nơi, trong vùng phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Bình, đĩa Chu Đậu trang trí hình hoa mẫu đơn (Peonie), chim sẻ, chim chích chòe, hoa cúc, lá tre. Hình vẽ khi thì phóng túng, phác bút, khi thì tỉ mỉ với nhiều chi tiết. Nét vẽ đậm nhạt khi rõ khi mờ, chứng tỏ người nghệ sĩ Việt đã ý thức trong việc sáng tạo một tác phẩm nghệ thuật hơn là sản xuất một món đồ dùng hàng ngày, với những hoa văn hoàn toàn thoát khác hẳn khuôn khổ Trung Hoa. Đây là thời kỳ với những bình, những ấm mà khi vẽ vừa xong, men còn ướt, người thợ tạt nước lên cho hình vẽ nhoè đi, mờ mờ, ảo ảo nhìn rất thích mắt. Họ lựa chọn nhũng hình ảnh mà người nghệ sĩ Trung Hoa không bao giờ nghĩ đến, như tôm, cua, chuồn chuồn, chim sẻ, chim chích chòe, cá bống, cá chép hóa rồng... (Người Trung Hoa khi vẽ rồng, bao giờ cũng chỉ vẽ rồng với mây mà thôi, người Việt Nam thêm hoa sen, hoa cúc vào...). Người nghệ sĩ Việt coi mỗi món đồ là một tác phẩm nghệ thuật nên nhiều khi họ đã ký tên, đề ngày và đôi khi viết cả tên người đặt làm món đồ nữa. Cuối thế kỷ 14, Đặng Huyền Thông ở Nam Sách thường ghi rõ tên mình trên nhiều món đồ rất đẹp do ông làm. Nhóm ông Tăng Bá Hoành, ở Viện Bảo tàng tỉnh Hải Dương, đã viết lên một chân hương câu: 'Hưng Trị tam niên, nhị nguyệt tạo, Nam Sách Phủ, Thanh Liêm huyện, Hùng Thắng xã, Đặng Huyền Thông thê Nguyễn Thị Đỉnh' - nghĩa là: Đặng Huyền Thông cùng vợ là Nguyễn Thị Đỉnh làm vào tháng hai năm Hưng Trị thứ ba (1590) tại xã Hùng Thắng, huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách. Trên một chân hương khác, làm năm Diên Thành thứ 3 - 1580, Đặng Huyền Thông ghi tên người đặt làm là sãi vãi Nguyễn Thị Liên, Vũ Thị Dương. [11] Một bình Chu Đậu tuyệt đẹp, mang tên 'Topkapi Saray' [12] , có viết vòng quanh cổ câu: 'Thái Hòa bát niên, Nam Sách châu, tượng nhân Bùi thị hý bút' - nghĩa là: 'nhà nghệ sĩ họ Bùi ở phủ Nam Sách vẽ cho vui năm Thái Hòa thứ tám (1450)'. Bình nổi tiếng khác là một bình tròn, to khoảng 35cm, do Duke of Florence tặng Prince Elector of Saxony năm 1590, hiện được giữ ở viện bảo tàng Johannaun Museum, Dresden, Thụy Điển. [13]

Cùng đồ Lý trắng, nâu, đồ Chu Đậu (kéo dài suốt từ đời Lý, Trần qua đến đời hậu Lê) rất phong phú về cả phẩm lẫn lượng. Đủ mọi thứ dáng hình, đủ mọi thứ hoa văn Việt Nam, thứ thì chỉ để dùng trong nước, thứ thì chỉ để xuất cảng, thứ thì làm theo mẫu đặt của người Nhật Bản, người Nam Dương, người Ả Rập... Thế kỷ 12 - 16 là thời kỳ mà sức sáng tạo nghệ thuật, sự phát triển kỹ thuật và sự thành công về thương mãi lên đến cao nhất của đồ gốm Việt nam.

Sau khi kỹ nghệ đồ gốm Chu Đậu bị huỷ diệt bởi quân binh của Trịnh Tùng, vì sự bỏ quên của thời nhà Nguyễn, cộng thêm ảnh hưởng của việc cấm buôn bán với nước ngoài của các triều đại này, đồ gốm Việt Nam không duy trì được truyền thống độc lập, được giá trị sáng tạo nghệ thuật trước đây nữa. Tiếc thay, sự thiếu sót trong việc thúc đẩy nghiên cứu, giáo dục của các chính quyền Nam, Bắc trong năm chục năm vừa qua, càng làm cái gia sản thuần Việt này mai một thêm.

© 2006 talawas



[1]Chúng tôi ghi lại những thời điểm chính của lịch sử và sự phát triển nghệ thuật đồ gốm Việt Nam trong Bảng Tóm lược Lịch sử đồ Gốm Việt Nam.
[2]Các nhà sưu tập trong nước thì cũng chỉ chú trọng vào loại đồ hoặc của Trung Hoa hoặc men lam Huế này. Học giả Vương Hồng Sển, với công trình sưu tập, nghiên cứu đồ sộ trong suốt hơn 50 năm, cũng chỉ viết chút ít về vài món Chu Đậu mà ông gọi lầm là đồ gốm Bát Tràng chứ không có các thứ đồ quý Việt Nam nào khác.
[3]Bà Morimoto Asako, khi nghiên cúu các mảnh vỡ khai quật ở Dazaifu và Hakata đã viết rằng, đồ gốm Việt đã đưọc dùng ở Nhật từ giữa thế kỷ 14. Muốn biết thêm về việc xuất cảng này, xin đọc Vietnamese Ceramic - a separate tradition của nhóm ông John Stevenson và John Guy, xuất bản năm 1997 ở Chicago; Vietnamese Ceramics do Southeast Asian Ceramic Society xuất bản năm 1982 ở Singapore; và tạp chí Arts of Asia của bà Tuyết Nguyệt, xuất bản ở Hương Cảng,v.v…
[4]Điểm tức cười là trong khi người Hồi Giáo Nam Dương mua gạch ngói men lam của Việt Nam để xây giáo đường (như xây Mosque ở Demak, Java), thì nhà Nguyễn lại nhập cảng gạch men lam từ nước Anh về xây lăng vua Khải Định.
[5]Tại Viện Bảo tàng Mỹ thuật ở Hà Nội, có nhiều vật tích như bình cao, trang trí những hình khắc cong và thẳng làm vào khoảng 2000 BC cho tới những ấm, âu làm từ 300 tới 500 BC. Museum of Fine Art ở Boston có trưng bày ấm vòi voi của Việt Nam làm trong khoảng thế kỷ thứ 3 BC tới thế kỷ thứ 1 BC.
[6]Trong suốt thời Bắc Thuộc, người Trung Hoa đã thất bại trong việc hủy diệt văn hóa Việt, và đồng hóa người Việt như họ đã thành công với các dân tộc khác. Ngược lại người Việt đã thành công trong việc thu nhập nhọc hỏi, và áp dụng những nét đẹp, kỹ thuật hay của Trung Hoa.
[7]Người Tàu còn tiếp tục làm các món men ngọc này cho mãi đến gần đây. Nhưng sau đời nhà Mạc thì các lò gốm Việt Nam không làm các loại này nữa.
[8]Vùng Bắc Việt không có loại đá trắng dùng làm men ngọc như Trung Hoa.
[9]Chúng tôi có một tô Lý Trắng với ám họa toàn biểu tượng văn hóa Ả Rập (hình trăng lưỡi liềm và sao, hình hai đoản đao bắt chéo...).
[10]Phật giáo truyền vào Việt Nam trước Trung Hoa - do các nhà sư Ấn Độ, đi vòng theo bờ biển Đông Nam Thái Bình Dương tới. Đạt Ma Sư Tổ cũng đi thuyền tới Việt Nam trước, rồi sau đó mới sang Trung Hoa để lập Thiền Tông và Chùa Thiếu Lâm.
[11]Xin đọc thêm Gốm Chu Đậu của Tăng Bá Hoành, Đặng Đình Thể, Vũ Danh Thắng, Nguyễn Duy Cương, và Nguyễn Khắc Minh, Bảo Tàng Tỉnh Hải Dương xuất bản năm 1993.
[12]Vì được giữ ở Topkapi Saray Museum, Istanbul, nơi lưu giữ tài sản của hoàng gia Ottoman, Thổ Nhĩ Kỳ.
[13]Tưởng cũng nên nhấn mạnh ở đây một điểm đặc biệt khác là sự tôn trọng vai trò của người phụ nữ trong xã hội Việt Nam. Những món đồ kể trên cho thấy vợ chồng Đặng Huyền Thông và Nguyễn Thị Đỉnh cùng ký tên vào tác phẩm, sãi vãi Nguyễn Thị Liên, Vũ Thị Dương được ghi tên vào món đồ họ đặt làm, đáng kể nữa là người họa sỹ họ Bùi ở Phủ Nam Sách còn ký tên mình vào một món đồ tuyệt đẹp làm để xuất cảng - hãy thử tìm, văn hóa Tàu, Nhật…, làm gì có sự tôn trọng người đàn bà như thế.