Hà Nhân Văn L.L.H.
Bí quyết công nghệ
FDM:
Lần trước ông hứa sẽ tiết lộ bí quyết mà hai ông Mahathir Mohamed và Lý Quang Diệu đã học mót của các nhà yêu nước Việt. Bí quyết đó là gì vậy?
QC1: Cái này là kỹ năng cơ bản nhất của nghề yêu nước, là bí quyết nghề nghiệp chính. Tôi biết những người ngoại đạo như cô không có khả năng sử dụng nên tôi mới tiết lộ đó. Cô phải giữ bí mật nhé.
FDM: Rất cảm ơn ông. Tôi sẽ không tiết lộ cho ai đâu. Ông yên tâm.
QC1: Ðó chính là công nghệ đạo đức nhân tạo hay đạo đức chuyên nghiệp, tên khoa học là HYPOCRISY. Xét về mặt thương mại, đó là một kỹ thuật tiếp thị đạo đức. Ðạo đức nhân tạo nghĩa là sáng tạo ra đức hạnh để làm gương cho mọi người. Hai ông Mahathir Mohamed và Lý Quang Diệu trưng bày các giá trị châu Á cho mọi người chiêm ngưỡng. Nhưng trong đầu và người họ toàn là giá trị Phương Tây, xài tư duy công nghệ, phương pháp quản trị và cả ngôn ngữ của Phương Tây. Cái duy nhất châu Á là cái tên, nghĩa là họ còn học mót của chúng tôi cả phương pháp duy danh nữa.
FDM: Vậy nhà yêu nước sử dụng công nghệ đạo đức như thế nào?
QC1: Ví dụ như tôi là người có lòng yêu tiền nồng nàn và tha thiết. Tận đáy lòng mình, tôi luôn coi tiền bạc là hiện thân cao nhất của chân lý và sẵn sàng hy sinh cả những gì quý giá nhất của đời mình như lương tâm và sự trung thực để tìm ra cái hiện thân chân lý đó. Nhưng đáng tiếc là hình ảnh đó lại thiếu hấp dẫn và thiếu sức thuyết phục đối với công chúng-khách hàng. Tâm lý truyền thống của người Việt là thích người thờ ơ với tiền, nếu khinh bỉ được thì càng quý và thà chết không trở thành nô lệ của tiền. Ðể bán được hàng, tôi cần xây dựng cho mình một hình ảnh đúng như công chúng mong muốn.
FDM: Nếu có ai phát hiện ra là ông đang làm tất cả vì tiền thì ông làm thế nào?
QC1: Tôi sẽ nói rằng để khỏi thành nô lệ của tiền thì phải có thật nhiều tiền, lười không chịu kiếm tiền chính là muốn làm nô lệ cho nó, tức là thiếu đạo đức. Tất nhiên tôi sẽ không nói là mình kiếm tiền bằng nghề yêu nước, đang xài đạo đức nhân tạo mà. Nhưng ít khi gặp tai nạn nghề nghiệp như thế lắm.
FDM: Vậy theo tôi hiểu thì nguyên lý vận hành của công nghệ này là tạo ra trong con mắt công chúng một hình ảnh về mình trái ngược với con người thật của mình?
QC1: Chính xác. Ðây là kỹ thuật mới nhất của ngành Truyền thông-Marketing (Marketing-Communications): kỹ thuật xây dựng thương hiệu ngược chiều.
FDM: Cái này mới đây. Ngành truyền thông hiện nay mới chỉ biết đến kỹ thuật xây dựng thương hiệu thuận chiều thôi. Cái này mà các công ty rửa tiền ở Trung Ðông với Nam Mỹ biết được thì sướng phải biết. Nhất định họ sẽ trải thảm đỏ mời ông làm Giám đốc Nhãn hiệu (Brand Manager.)
QC1: Họ mời tôi rồi, tha thiết lắm. Nhưng trình độ tiếng Việt của họ yếu lắm, làm việc làm sao được.
FDM: Tiếc nhỉ. À mà có điều này tôi chưa hiểu: dưới góc độ kinh doanh thì nhà yêu nước tạo ra sản phẩm đạo đức rồi bán cho người tiêu dùng, thu lợi nhuận. Vậy lợi nhuận đó là gì?
QC1: Nhà yêu nước kiêm đạo đức sẽ thu được uy tín và sự kính trọng của khách hàng-công chúng, tạo nên thương hiệu cá nhân riêng của mình, dùng để thăng tiến trong nghề yêu nước, để được nâng bậc chuyên viên yêu nước, được vào Ban chấp hành, được tiêu chuẩn đoạt các giải thưởng lớn. Khách hàng và công chúng của họ là những người có ảnh hưởng đến việc thăng tiến đó.
FDM: Công nghệ này hay đấy. Vậy nó ra đời như thế nào?
QC1: Ðạo đức nhân tạo là một thành tựu trí tuệ vĩ đại của các nhà yêu nước chuyên nghiệp Việt. Ðó là sự kết hợp giữa tinh hoa của trí tuệ dân tộc Việt với những nghề cổ truyền của nhân loại.
FDM: Tôi bắt dầu tò mò rồi đấy. Tinh hoa trí tuệ dân tộc Việt là gì vậy?
QC1: Nguời Việt ít dùng chữ trí tuệ như người Phương Tây (intellect, intelligence), mà dùng chữ trí khôn, hay minh triết (wisdom). Trí khôn là một dạng cao hơn của trí tuệ, là trí tuệ đã được chọn lọc và kết tinh.
FDM: Ồ. Trí khôn cao hơn trí tuệ như thế nào?
QC1: Ðể tôi kể cô nghe câu chuyện dân gian
Trí khôn của ta đây: Con hổ xưa nay được phong là chúa sơn lâm, nhưng nó nghe nói vẫn chưa bằng con người vì con người có trí khôn. Nó rất tò mò muốn biết trí khôn là cái gì mà ghê gớm vậy, bèn tìm gặp người nông dân. Người nông dân bảo: nếu ngươi muốn biết thì để ta trói lại rồi sẽ cho xem. Trói xong, người nông dân châm lửa đốt con hổ, con hổ đau quá, sau khi cháy hết dây chạy mất vào rừng.
FDM: À, hay thật. Ðúng là trí khôn cao hơn trí tuệ thật. Con hổ giống như một sinh viên ham muốn được biết cái mới, tượng trưng cho tinh thần trí thức hay trí tuệ (intellect.) Còn người nông dân tượng trưng cho trí khôn. Chỉ bằng một động tác đơn giản, trí khôn đã lừa được trí tuệ, hạ gục trí tuệ.
QC1: Nhưng đó mới chỉ là trí khôn dạng sơ khai. Trong truyện
Cây nêu ngày tết, Người ba lần lừa Quỷ để đoạt lấy thành quả lao động của Quỷ. Hay truyện Tấm Cám cũng vậy, cô Tấm, biểu tượng cho đức hạnh của người phụ nữ Việt, đã lừa cho Cám trèo lên cây rồi đốn cây, rồi lại lấy xác cô Cám làm mắm lừa cho mẹ cô ta ăn. Trong hai truyện sau, mới đúng là Trí-khôn-kiểu-Việt nghĩa là dùng trí khôn để thu lấy thành quả lao động của người khác hoặc gây thiệt hại cho họ.
FDM:
Tháng trước, tôi đi đường gặp một cô gái rất nhiệt tình và dễ thương. Dọc đường cô mời tôi uống nước ngọt. Lát sau tôi bỗng ngủ thiếp đi. Và đó là lần cuối cùng tôi nhìn thấy cái máy quay phim của mình: nó đã đi theo người chủ mới. Ðấy có phải là Trí-khôn-kiểu-Việt không?
QC1: Ðúng rồi. Vậy là cô trả học phí rẻ hơn cả con hổ, quỷ và mẹ con cô Cám rồi đó. Mất có mỗi cái máy quay phim mà học thêm được trí khôn của cả một dân tộc.
FDM: Tôi đã học thêm được nguyên lý của Trí-khôn-kiểu-Việt: cách ly người đối diện với sự thật, để thu lấy của cải của người đó. Và nguyên lý gốc này được nâng lên thành công nghệ đạo đức là cách ly công chúng với sự thật về con người mình. Trí-khôn-kiểu-Việt nhằm thu lợi trước mắt, nhưng lại bị mất danh (nếu có). Còn công nghệ đạo đức nhằm thu lấy danh, tức thương hiệu cá nhân, rồi từ đó mới thu lợi lớn hơn và lâu dài. Hay. Các ông nên đăng ký bản quyền cho cái Trí-khôn-kiểu-Việt này ngay đi. Doanh thu hiện nay từ khai thác lậu phát minh này chỉ riêng ở Châu Á, Ðông Âu và Nam Mỹ không dưới 200 tỷ USD/năm. Mình chỉ cần đòi vài phần trăm tiền bản quyền là khỏe rồi.
QC1: Chả cần. Chỉ cần mình khai thác tốt là được rồi. Ở nước tôi, Trí-khôn-kiểu-Việt như vậy luôn luôn đánh bại trí tuệ. Sau khi giành chiến thắng thì trí khôn lên ngôi. Và để duy trì ngôi báu, trí khôn phải thường xuyên trấn áp trí tuệ và những hiện thân của nó.
FDM: Hiện thân của trí tuệ là gì?
QC1: là trí thức, là bọn trí thức. Nhưng chuyện này dài lắm ta sẽ nói sau.
FDM: Vâng. Xin ông nói tiếp về công nghệ đạo đức.
QC1: Cô biết đấy, nhờ công nghệ đạo đức mà các nhà yêu nước chuyên nghiệp đã được rất nhiều người ngưỡng mộ, đã trở thành thần tượng của rất nhiều người, trong đó có cả những phần tử như lừa đảo, lưu manh, trộm cắp.
FDM: Thì họ cũng phải có lúc hướng thiện chứ?
QC1: Cô hay đùa thật đấy. Nếu hướng thiện thì họ tìm đến các nhà yêu nước làm gì? Vấn đề là họ đã tìm thấy chính mình ở đó. Họ đã phát hiện ở công nghệ đạo đức một phương tiện tuyệt vời để giúp họ lập thân.
FDM: Những kẻ lừa đảo đó ở đâu ra vậy?
QC1: Ðầu tiên họ chỉ là trộm cắp vặt thôi. Sau thấy ăn trộm nguy hiểm quá, lại dễ bị đánh đòn, họ chuyển sang dùng Trí-khôn-kiểu-Việt để kiếm sống bằng tài sản của người khác. Nhưng nghề này vẫn không thọ lâu được vì hay bị người ta ghét, thiếu cái danh. Rất may cho họ là cuối cùng họ là tìm thấy công nghệ đạo đức và nghề yêu nước. Công nghệ này đã đổi đời cho họ. Và họ đã “rũ bùn đứng dậy sáng lòa."
[1] Nhiều đồng nghiệp của chúng tôi đã đi lên như vậy đó.
FDM: Ðúng là cách mạng về khoa học-công nghệ luôn kéo theo cách mạng về nghề nghiệp. Ông có nói là công nghệ đạo đức là sự kết hợp giữa tinh hoa trí tuệ dân tộc với những nghề cổ truyền của nhân loại. Vậy nghề cổ truyền đó là gì?
QC1: Ðạo đức nhân tạo thực ra đã có từ thuở xa xưa. Sau này nó được bổ sung thêm Trí-khôn-kiểu-Việt để được nâng cấp thành một công nghệ. Trước đó đã có nghề đạo đức nhân tạo, một trong những nghề cổ xưa nhất của loài người. Có lẽ nó xuất hiện ngay sau khi có nghề buôn hương bán phấn của chị em phụ nữ. Tuy về hình thức đây là hai nghề đối lập nhau, nhưng về bản chất lại giống nhau và bổ sung cho nhau.
FDM: Xin ông nói rõ hơn?
QC1: Trong quá trình phát triển của khoa học kinh doanh, người ta phát hiện rằng con người có một nhu cầu rất cao về danh dự, một nhu cầu mà phương thức kinh doanh truyền thống của nghề buôn hương bán phấn không đáp ứng được. Từ đó mới xuất hiện phương thức kinh doanh mới là nghề đạo đức. Thực ra, không có sự thay đổi nghề nghiệp mà chỉ là thay đổi phương thức hoạt động. Phương thức mới này hiệu quả hơn là nhờ cái thương hiệu đạo đức của nó. Bây giờ là thời của thương hiệu mà.
FDM: Nghề đạo đức khác nghề buôn hương bán phấn ở chỗ nào?
QC1: Nghề đạo đức vất vả hơn, cần nhiều chất xám hơn, và căng thẳng hơn. Nếu nghề buôn vốn tự có chủ yếu làm việc ban đêm thì nghề đạo đức đòi hỏi phải làm việc 24 trên 24 giờ, đầu óc luôn trong trạng thái cảnh giác, phải canh chừng để người khác khỏi phát hiện ra con người thật của mình. Ðạo đức chuyên nghiệp không chỉ là một nghề mà còn là một nghệ thuật. Nhà đạo đức chuyên nghiệp phải có các phẩm chất của một nghệ sĩ, nhất là của diễn viên kịch. Họ phải biết khán giả của mình là ai, muốn gì và có quan niệm sống thế nào, và cuối cùng là việc hành nghề với họ có thể đem lại gì cho mình.
FDM: Ðúng là chơi đạo đức cũng lắm công phu thật.
QC1: Chơi là thế nào? Ðây là kiếm sống, là mồ hôi nước mắt chứ cô tưởng nhàn lắm à. Làm nghề yêu nước là luôn phải chịu đựng những đòi hỏi vô lý của người đời. Họ luôn luôn đòi hỏi chúng tôi phải làm việc và cư xử như những nhà yêu nước nghiệp dư: nói thế nào phải làm như thế. Bất công không chịu được. Khẩu hiệu của nghề này là “các bạn hãy làm như tôi nói. Ðừng làm như tôi làm.”
Nếu nói thế nào phải làm như thế thì còn gì là công nghệ đạo đức nữa.
FDM: Lúc nãy ông có nói về kinh doanh đạo đức. Vậy nhà đạo đức bán cái gì?
QC1: Về nguyên tắc là bán sự trung thực, lương tâm nghề nghiệp và tâm hồn mình. Tuy nhiên, cái này không phải nhà đạo đức chuyên nghiệp nào cũng có để bán. Trong khi đó những chị em buôn hương bán phấn chắc chắn là bán cái có thật, không bán “hàng ảo.” Hơn nữa, nếu như họ bán cái tự có của mình một cách rõ ràng minh bạch, thì các nhà đạo đức chuyên nghiệp lại làm việc đó một cách không công khai. Ðó là nhờ tính hào phóng của các nhà đạo đức.
FDM: Sao lại hào phóng?
NTV: Có bao nhiêu đạo đức kinh doanh thì các nhà đạo đức đã hào phóng đem cho hết cho các đồng nghiệp buôn hương bán phấn của mình rồi, họ chẳng còn bao nhiêu. Vì vậy nên họ mới để các đồng nghiệp hương phấn kia vượt qua họ về đạo đức kinh doanh. Tất nhiên chỉ là vượt về đạo đức thôi còn về kết quả kinh doanh thì họ vẫn hơn nhiều.
FDM: Ðúng là hơn thật. Công nghệ đạo đức là sự kết hợp giữa Trí-khôn-kiểu-Việt với nghề buôn hương bán phấn. Trí-khôn-kiểu-Việt đã là lãi lắm rồi vì thu được lợi của người khác. Ðằng này lại thu thêm danh nữa (và lợi nhuận dài hạn từ danh) từ kinh doanh vốn tự có (không mất vốn) thì đúng là lãi đơn lãi kép. Vừa được lợi vừa được danh. Ðúng là siêu lợi nhuận. Quá ổn. Vậy công nghệ này phát triển thế nào?
QC1: Phiên bản đầu tiên của công nghệ đạo đức là tinh thần yêu nước. Thứ tình cảm thiêng liêng này, trước khi trở thành một nghề, luôn là một ngọn cờ tuyệt vời để huy động sức mạnh và sự hy sinh của dân chúng. Chính lòng yêu nước, chứ không phải một thứ hệ tư tưởng nhập khẩu nào đó, đã đem lại sức mạnh để giải phóng dân tộc tôi.
FDM: ...cho đến khi nó trở thành một nghề?
QC1: Ðúng vậy. Riêng về điểm này người Việt tỏ ra hơn hẳn người Nhật và người Ả-rập về tính sáng tạo ứng dụng. Nếu người Nhật chỉ biết thể hiện lòng yêu nước bằng cách tự mổ bụng (harakiri) kiểu võ sĩ đạo Samurai hoặc lao máy bay cảm tử, người Ả-rập chuyên về đánh bom dân thường, thì người Việt đã biết biến lòng yêu nước thành một nghề hữu ích cho con người. Nghề này đã giải quyết việc làm cho biết bao người không có bằng cấp hay kỹ năng chuyên môn, thậm chí đưa một số người trong số họ lên đỉnh cao của quyền lực và vinh quang.
FDM: Sao phát minh này vẫn chưa được cấp bằng sáng chế nhỉ? Thậm chí nó phải được đưa vào danh sách đề cử cho giải Nobel kinh tế mới đúng. Tôi sẽ viết về vụ này. Rồi sau đó công nghệ đạo đức phát triển thế nào? Phiên bản mới nhất của nó là cái gì?
QC1: Cô phải hết sức bình tĩnh. Có lẽ cô không được khỏe thì phải. Tôi toàn nói những thứ bình thường mà thấy cô hay bị choáng quá. Khi nào cô hết choáng, tôi sẽ nói về phiên bản mới nhất này.
FDM: Anh thông cảm. Tôi có nhược điểm là khi nào gặp quá nhiều cái mới lạ thì lại bị như vậy. Vậy công nghệ đạo đức chắc đã đóng góp rất nhiều cho xã hội?
QC1: Nhiều lắm. Công nghệ đạo đức, thông qua những nhà yêu nước, đã được truyền bá rộng rãi và được toàn xã hội áp dụng. Nhiều người đã bỏ hẳn thứ đạo đức nghiệp dư cổ lỗ thiếu hiệu quả mà thay bằng cách cư xử mới văn minh: dùng ngôn ngữ của cái đẹp thay cho cái thật thô lậu.
FDM: Cái thật không phải là cái đẹp à?
QC1: Ngược lại.
Ở nước tôi, cái thật luôn giết chết cái đẹp. Có cái đẹp nào bằng người phụ nữ, kiệt tác của Tạo hóa? Và có cái gì xúc phạm phụ nữ bằng nói sự thật về họ? Tôi chưa thấy người phụ nữ nào tha thứ cho kẻ dám đẩy họ tới chỗ phải đối mặt với sự thật. Việt nam chính là một người phụ nữ, thậm chí là người nhiều nữ tính nhất trong các phụ nữ trên thế giới.
FDM: Khéo tôi phải kiểm tra xem mình có phải là phụ nữ không vì tôi toàn đi tìm sự thật mà.
QC1: Tuy nhiên cũng có một vài kẻ không chịu học công nghệ đạo đức. Nguyễn Huy Thiệp (và một vài kẻ khác) đã từng bị ăn đòn hội đồng chính là vì không chịu học cái đẹp mới, cứ khư khư cái thật, cứ tưởng thế là hay. Trong khi những người tử tế bao giờ cũng chọn điều hay lẽ phải, hướng tới cái đẹp, thì lão lại đi nói mọi thứ trắng phớ ra. Trâng tráo hết sức.
FDM: Cái đó liệu có phải là cái đẹp không, hay chỉ là tiện nghi thôi? hoặc nhiều lắm thì là cái đèm đẹp?
QC1: Ðối với người Việt chúng tôi,
tiện nghi chính là cái đẹp hùng hồn nhất. Một tác phẩm đem lại cảm giác lạc quan, yêu đời, tự hào, ấm áp bao giờ cũng hay hơn một tác phẩm làm cho người đọc bi quan, chán nản. Khi đạo đức nhân tạo đã trở nên phổ biến trong xã hội dưới dạng ngôn ngữ của cái đẹp, nó đã góp phần củng cố thêm truyền thống yêu chuộng tiện nghi của độc giả Việt, phù hợp với xu thế đòi hỏi tiện nghi ngày càng cao của người tiêu dùng.
FDM: Hay thật. Ðúng là nghệ thuật và cuộc sống ở đây đã hòa nhập, đan xen vào nhau tới mức không biết cái nào là nghệ thuật, cái nào là cuộc sống. Thật là kỳ diệu. Trở lại vấn đề công nghệ đạo đức, anh thấy triển vọng thế nào?
QC1: Công nghệ đạo đức đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ. Tuy nhiên, trong thời đại kinh tế thị trường ngày nay, khi nghề yêu nước và nghề làm quan đang phải đối mặt với những thách thức của quan niệm thực dụng về giá trị, thì công nghệ đạo đức nhân tạo vốn gắn liền với nghề này cũng cần phải tìm những cách tồn tại mới để thích nghi. Trí-khôn-kiểu-Việt lại trở nên khá đắc dụng, nhất là trong kinh doanh. Nó là con
đường đi tắt tới lợi nhuận, chẳng hạn như kinh doanh hóa đơn thuế giá trị gia tăng, tránh thuế thu nhập, tránh thuế nhập khẩu, ...
FDM: Nhưng áp dụng trí khôn kiểu này thì sẽ không có thương hiệu, khó làm ăn lâu dài?
QC1: Ðúng vậy. Và đó chính là lý do để ra đời một phiên bản mới của công nghệ đạo đức. Cô đã được nghe nói qua về nó rồi đó. Cô đoán ra cái gì không?
FDM: Có phải là “Trở về Phương Ðông”?
GÐK: Phương Ðông thì khác gì châu Á. Sau vụ khủng hoảng tài chính châu Á 1997 thì giá trị châu Á mất giá rồi, không xài được nữa.
FDM: Hay là “tính người”, ” "tính nhân văn?"
GÐK: Cũng được. Nhưng nó hơi trừu tượng, không hấp dẫn lắm với khách hàng Việt. Cô chắc đã xem vụ “Hoa Thuỷ tiên” Nguyễn Huy Thiệp rồi chứ. Sôi động và hấp dẫn, đúng không? Cô có biết nhờ đâu mà người Việt có biệt tài tranh luận để giành chiến thắng như vậy không?
FDM: Có phải nhờ truyền thống chiến đấu chống ngoại xâm?
GÐK: Cũng chỉ phần nào thôi.
FDM: Hay vì đó là đường ngắn nhất đi tới thành công trong tranh luận, dễ hơn là tranh luận để tìm ra chân lý?
GÐK: Cái này đúng hơn, nhưng cũng chưa đúng hẳn. Cô cứ chịu khó tranh luận với tôi vài bữa là sẽ tìm ra bí quyết này ngay thôi mà. Thôi để lần sau cô sẽ biết. Tạm biệt nhé.
© 2004 talawas
[1]Thơ có lẽ là của Nguyễn Ðình Thi.