trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
  1 - 20 / 884 bài
  1 - 20 / 884 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Văn họcVăn học Việt Nam
12.3.2008
Yến Nhi
Tư tưởng cấp tiến và thủ pháp hư cấu trong kịch và tiểu thuyết lịch sử
 
Trong mấy năm gần đây, xuất hiện nhiều tác phẩm văn chương viết về đề tài lịch sử gây được ấn tượng trong lòng độc giả, tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề bàn cãi, trong đó nổi lên là vấn đề hư cấu nghệ thuật, vấn đề quan hệ giữa cái có thật và cái sáng tạo thêm của tác giả, liều lượng và tác dụng của chúng!

Nhân vật lịch sử (đặc biệt là danh nhân) và việc thể hiện các nhân vật đó trong các tác phẩm văn chương là mối quan tâm hàng đầu. Nhân vật lịch sử là con người có thật trong một thời kỳ lịch sử, có tiểu sử, có hành trạng rõ ràng, được ghi chép trong sử sách cũng như trong trí nhớ của cộng đồng. Nhân vật lịch sử được thể hiện trong văn chương thường gặp là loại truyện danh nhân. Truyện danh nhân là loại tự sự ghi lại cuộc đời và công trạng của các danh nhân lịch sử. Ở thể tài này, người viết sắp xếp các tình tiết, xâu chuỗi các nhân vật trong mối quan hệ xác thực, hình tượng hoá nó lên để tăng cường sự hấp dẫn, tăng cường giá trị thẩm mỹ, người viết không thêm bớt những tình tiết, đưa vào những sự kiện không có thực. Truyện danh nhân chính là thể “ký” trong bình diện đề tài lịch sử (Truyện danh nhân đất Việt - Nhiều tác giả). Còn kịch, truyện ngắn và tiểu thuyết lịch sử thuộc các thể loại cho phép người viết thêm bớt, sáng tạo xung quanh cái sườn lịch sử. Tính chất văn chương (tiểu thuyết) tạo một khoảng rộng cho sự hư cấu. Người viết kịch và tiểu thuyết lịch sử không chỉ chọn lọc, sắp xếp các sự kiện mà có thể thêm bớt, sáng tạo, kể cả việc sử dụng các yếu tố ảo, vô thức, các thế lực siêu nhiên. Giới hạn của việc tạo tác này là không đi ngược lại bản chất của lịch sử, bản chất của nhân vật. Truyện danh nhân là cái đã có (cái dĩ nhiên). Kịch, tiểu thuyết lịch sử là cái có thể có (cái khả nhiên).

Danh nhân nếu với tư cách là một nhân vật văn chương xuất hiện trong tác phẩm văn chương, có khi được thể hiện bằng một tổng thể trọn vẹn, nhưng cũng có khi chỉ được thể hiện với một phương diện nào đấy của nhân cách, trong một không gian, thời gian nhất định, với một khía cạnh, tính cách nhất định. Các tác phẩm văn chương viết về quá khứ, về lịch sử là tái tạo lịch sử, đánh giá lịch sử trong con mắt thời đại mới. Lịch sử chỉ một nhưng đánh giá có nhiều cách. Tuy nhiên sự đánh giá nào xuyên tạc, đi ngược lại quan điểm của nhân dân, xa sự thật đều không bền vững. Ở đây có một vấn đề tế nhị. Sự đánh giá của cộng đồng đối với các nhân vật lịch sử cũng không phải nhất thành bất biến mà thay đổi theo thời gian. Thời đại mới cung cấp cho cộng đồng nhiều dữ kiện mà trước đây chưa có hoặc chưa được dung nạp, tạo điều kiện xuất hiện cách đánh giá mới về lịch sử có thể rất khác trước. Đây cũng là một quy luật của nhận thức trên chặng đường tiếp cận chân lý. Nhìn chung, những khám phá mới về lịch sử được thể hiện trong văn chương không vượt quá sự nhận thức của xã hội về những vấn đề đó mà hai khoa học lịch sử cũng như văn học quan tâm, vì đó là điểm đến của “tầm đón nhận” chân lý mà cộng đồng đạt tới. Trong các tác phẩm kiểu này, hiện thực không phải là mục đích chính của nhà văn khi miêu tả, mà đó chỉ là phương tiện, là cái cớ để thể hiện tư tưởng của nhà văn. Các thông điệp mà tác giả gửi gắm thông qua đề tài lịch sử là những kiến giải thấm nhuần tư tưởng của con người hiện đại. Bức tranh lịch sử trong các tác phẩm văn chương (Kịch, Truyện ngắn và Tiểu thuyết lịch sử) không chỉ được chuyển dịch mà còn được cải biến theo tâm lý thời đại. Các tác giả không chỉ phản ánh một thời kỳ đã qua mà còn muốn lấy xưa nói nay! Nhìn chung, các tuyến sự kiện và các nhân vật lịch sử trong các tác phẩm văn chương đều được sáng tạo lại. Tư tưởng dân chủ - cấp tiến chi phối sâu sắc những biện pháp nghệ thuật, đặc biệt là thủ pháp hư cấu trong các tác phẩm lấy đề tài từ lịch sử.

Ngay từ những năm giữa thế kỷ trước, Nguyễn Huy Tưởng đã có những bước đi táo bạo, đặt nền móng cho kịch và tiểu thuyết lịch sử hiện đại Việt Nam. Trong các tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng, cảm hứng lịch sử đã trở thành chủ đề bao trùm hầu hết: Đêm hội long trì, An Tư công chúa (tiểu thuyết), Vũ Như Tô, Cột đồng Mã Viện,Thái bình diên yến (kịch)… Tuy nhiên, lịch sử trong tác phẩm chỉ là cái cớ để ông thể hiện những băn khoăn về thân phận con người, cũng như vận mệnh đất nước trong cái thời cuộc đầy tao loạn. Đêm hội long trì: vấn đề quyền uy và đạo lý. An Tư: vấn đề tình riêng và nghĩa chung.Vũ Như Tô: nghệ thuật và nhân quần. Thái bình diên yến: lòng yêu nước, sự hy sinh vì cộng đồng... Với cái cách gửi gắm lấy xưa nói nay và lợi dụng các đặc điểm của thể tài, tác giả đã có nhiều sáng tạo trong việc xây dựng các tình huống, các sự kiện lịch sử cũng như khắc hoạ nhân vật. Bằng “cái nhìn văn chương”, Nguyễn Huy Tưởng miêu tả nhân vật không theo một sơ đồ giản lược định sẵn mà thể hiện tâm lý trong mối tổng hoà đa dạng có chiều sâu, với cả những góc khuất thầm kín, có sự phát triển tính cách khá sinh động như trong cuộc đời vậy! Trịnh Sâm (Đêm hội long trì) với tính cách phức tạp, là một con người thực sinh động với hỉ, nộ, ái, ố… Tác giả đẩy các mối quan hệ tới cao trào, cái niềm riêng và cái nghĩa chung của một vị chúa đối với phép nước. Mối dày vò trong tâm tư Trịnh chúa, những mâu thuẫn mà tác phẩm dựng nên, không chỉ bó gọn trong việc dựng lại cuộc sống cung đình thời ấy mà còn nêu lên những vấn đề nhân sinh của ngày nay, vấn đề cái thiện cái ác, vấn đề nhân phẩm, quyền sống của con người… Hình tượng các tuớng giặc Toa Đô, Thoát Hoan của phía bên kia (Thái bình diên yến, An Tư) cũng được thể hiện một cách sinh động không rập khuôn khô cứng theo một ý định có sẵn mà sống động với thế giới nội tâm tự nhiên, sâu sắc. Đặc biệt với Vũ Như Tô, tác giả đã xây dựng một bi kịch lịch sử, nêu một vấn đề lớn, một thông điệp mạnh mẽ về nghệ thuật - bạo quyền - nhân dân. Các nhân vật Vũ Như Tô, Đan Thiềm đều có một chiều kích nội tâm phong phú, những mâu thuẫn, giằng xé nội tâm, diễn ra trong những bối cảnh oái oăm, khốc liệt, không còn là những hình nhân mờ nhạt tiêu biểu cho những khái niệm đạo lý trừu tượng trong các trang sách cũ. Cùng với việc khắc hoạ sâu sắc các nhân vật chính diện cũng như phản diện, tác giả đưa thêm vào nhiều sự kiện rất sống động giàu ý nghĩa: cảnh vua Thiếu Bảo ăn cơm nắm với dân, cảnh An Tư bế cháu Huyền Trân trong buổi chia tay… Tác giả cũng mạnh dạn tạo dựng nhiều nhân vật không có trong lịch sử như Hùng Chi, Khúc Việt (Cột đồng Mã Viện), sáng tạo tính cách các nhân vật Nguyễn Mai, Bảo Kim (Đêm hội long trì) làm tăng sức hấp dẫn...

Xét trên các phương diện: sự thể hiện chiều sâu nội tâm, khai thác cái “mặt sáng” nhưng không loại trừ những “mặt tối” của nhân vật; sự thêm vào những tình tiết mới mẻ không có thật trong lịch sử đã thể hiện đầy đủ sự chi phối của tư tưởng cấp tiến, dân chủ đến các thủ pháp hư cấu mà chúng ta thường gặp trong các thể tài văn chương quen thuộc. Tác giả chỉ dựa vào một vài sự kiện được lược ghi trong lịch sử, rồi bằng hư cấu tưởng tượng tạo nên thế giới sinh động, mang một tầm khái quát mỹ học mới. Nguyễn Huy Tưởng đã đem lại một sức sống, một ý nghĩa lớn cho thể loại kịch lịch sử mà sau này, các tác giả khác còn phát triển thêm.

Trước khi bước sang lĩnh vực tiểu thuyết, chúng ta thử tìm hiểu thể loại truyện ngắn thời đổi mới. Nguyễn Huy Thiệp với những trang viết về danh nhân trong quá khứ (Vàng lửa, Phẩm tiết) tuy có gây nhiều bàn cãi nhưng cũng định hình được một thủ pháp: văn chương là tái tạo lịch sử hay nói một cách khác là viết lại lịch sử theo minh triết và óc tưởng tượng của nhà văn. Hình ảnh Quang Trung trong tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp: một lãnh tụ nông dân lên làm vua, cái quy trình cung đình hoá mà thời đại dung dưỡng không thể không để lại những vết bùn dục vọng trên những bước chân của ông! Về Gia Long, Nguyễn Huy Thiệp xem ông là “khối nguyên liệu vô giá”, là một người có cá tính, có tài tổ chức nhưng cũng là kẻ “đam mê” sắc dục. Hai vị vua đều say mê Vinh Hoa, muốn chiếm đoạt người đẹp. Rồi Trần Thị Trường trong Ngày cuối cùng của dâm phụ đã thay đổi nhiều về cách nhìn và tái hiện số phận các nhân vật so với những quan niệm bảo thủ thông thường. Tác giả trong tác phẩm đã để cho Nguyễn Thị Lộ - một người đàn bà nhẹ dạ phù phiếm - bộc bạch tâm trạng: “...Dù có thế nào đi nữa thì thiếp vẫn là đàn bà nông nổi. Thiếp vẫn lộ mình ra để lọt vào tầm ngắm cùa Nguyên Long. Thiếp vẫn ham hố chức tước. ...Song song với tình yêu ấy thiếp cũng yêu hoàng thượng. Hoàng thượng không chỉ là hoàng thượng, còn cả ánh hào quang bao quanh. Thiếp cũng vẫn chỉ là một người đàn bà. Thiếp yêu cả hai trong một.” Điệp khúc “Thiếp vẫn chỉ là người đàn bà” mà tác giả để cho Nguyễn Thị Lộ nhắc đi nhắc lại như hàm ý nói rõ sự bé nhỏ mong manh của nàng trước uy quyền nhà vua. Đáng thương và đáng trách cũng ở chỗ đó! Chính sự nông nổi và sự phù phiếm của nàng đã góp tay cho tội ác đang mơ hồ bỗng trở thành hiện thực. Cảm quan dân chủ khiến Nguyễn Huy Thiệp, Trần Thị Trường không thần tượng hoá một số danh nhân lịch sử. Họ không bay trên đầu nhân dân như các thần linh mà chỉ là những người đi trước. Họ có thể vấp ngã và có thể có những “khoảng tối” trong tính cách. Cái gì “thuộc về con người đều không xa lạ” với họ. Điều này rất gần gũi khi ta đối chiếu với các nhân vật anh hùng trong quá khứ được thể hiện trong văn học thế giới như Cutudôp (Chiến tranh và Hoà bình - L. Tolstoy), Piôt đại đế (tác phẩm cùng tên của A. Tolstoy), Tào Tháo (Tam Quốc Chí - La Quán Trung)… Đấy là đặc điểm của tiểu thuyết, một sản phẩm văn hoá khi “Con Người” trưởng thành với khả năng tự phân tích và thấu triệt được tính biện chứng của quá trình diễn tiến tâm lý, không còn đơn giản như thời thơ ấu của thể loại anh hùng ca.

Với tiểu thuyết lịch sử, các tác giả càng có điều kiện mở rộng biên độ tưởng tượng, hư cấu. Các chiêu thức biến hóa luân hồi, các huyền thoại đều được sử dụng để tô đậm bối cảnh, góp phần thể hiện tư tưởng tác giả. Trong sự thay đổi cách nhìn, cách thể hiện tính cách và số phận trong các tác phẩm tiểu thuyết lịch sử, nhân vật được phóng tác trên hai bình diện tâm lý và hành động. Nhân vật không minh hoạ cho một khái niệm có sẵn mà là một con người “đa tính cách” sống đích thực. Tâm lý phát triển biện chứng kéo theo những hành động mà có thể chỉ là “khả năng” trong lịch sử. Nguyễn Mộng Giác trong Sông Côn mùa lũ đã khá thành công với hai nhân vật An và Nguyễn Huệ. Nếu Nguyễn Huệ là một nhân vật thoát thai từ lịch sử thì An là sản phẩm thuần túy con đẻ của trí tưởng tượng tác giả. Một Nguyễn Huệ bình dị trong đời thường, nhưng cũng rất anh hùng, không phải anh hùng một cách khô cứng, đơn giản mà là con người có những suy tưởng, trăn trở đầy trí tuệ, vượt lên khỏi giới hạn “khởi nghĩa nông dân” để trở thành người anh hùng dân tộc chân chính. An “là người phụ nữ Việt Nam của mọi thời biến động, nhẫn nại, yêu thương, đi hết số phận mình và phong phú, đẹp đẽ biết bao trong nội tâm… người gánh lịch sử, đất nước, chồng con... trên đôi vai bé nhỏ, yếu đuối của mình” (Mai Quốc Liên). Vũ Ngọc Tiến với bộ ba tiểu thuyết lịch sử Ba nhà cải cách gây được ấn tượng với độc giả nhờ sự táo bạo “trộn ngấu dòng đời và dòng lịch sử bằng minh triết và óc tưởng tượng” (Hoàng Ngọc Hiến). Tác phẩm của Vũ Ngọc Tiến viết về lịch sử với một cảm quan mới mẻ, ông đã mạnh dạn đưa những mưu mô giả trá, sự gian hùng lồng vào trong tính cách của Trần Thủ Độ, Khúc Hạo và cả Đào Duy Từ, minh chứng cho sự thật muôn thuở nghiệt ngã trên chính trường các triều đại. Bên cạnh là những trang viết sinh động diễn tả nội tâm của những người phụ nữ Việt như Trần Thị Dung, Khúc Huyền, Thục Nga.. Tác giả cũng thêm vào những nhân vật không có trong lịch sử như đại sư Duy Giác - thầy dạy Đào Duy Từ, đại sư Minh Luân - nhà sư thông tuệ, bí ẩn hiện thân của Phật học Việt Nam. Đặc biệt Vũ Ngọc Tiến lồng cái “minh triết tam giáo đồng nguyên” vào trong suy nghĩ của các nhân vật lịch sử, xem tư tưởng tam giáo đồng nguyên là sự chắt lọc các tinh hoa “quảng bác của Nho giáo, vi huyền của Lão giáo, vi diệu của Phật giáo”, ba phẩm chất này hoàn toàn có thể thống nhất hoà hợp với nhau (Khúc Hạo). Đó cũng là chữ “Tâm” mà Trần Thái Tông nêu lên để giải quyết các các quan hệ người và tự nhiên, nguời và người và trong tâm thức của chính mình. Hồ Quý Ly trong tác phẩm cùng tên của Nguyễn Xuân Khánh cũng là một tính cách đa dạng: một tài năng, một nghị lực, một tham vọng, một hoài bão, nhưng cũng là một cá tính độc đoán có khi hơi tàn nhẫn. Từ Đạo Hạnh, nguyên phi Ỷ Lan, cung nữ Ngạn La (Giàn thiêu) là những sáng tạo sinh động của Võ Thị Hảo, tác giả nhìn lịch sử từ nhiều phía nên miêu tả nhân vật thực sự trần thế, có những nét riêng của tính cách con người thực, hoặc hằn học, mù loà, hoặc yêu thương thánh thiện, hoặc từ bi đức độ… Các yếu tố huyền ảo (biến hoá luân hồi, các phép thần thông, những giấc mơ huyễn hoặc...) được sử dụng hợp lý khiến độc giả thích thú!

Tìm hiểu về sự sáng tạo của các tác giả trong văn chương Việt Nam về đề tài lịch sử, dẫu có muộn nhưng vẫn có một bề dày truyền thống kể từ Hoàng Lê nhất thống chí - Ngô gia văn phái. Tuy nhiên, trước đây sự sáng tạo chỉ dừng lại việc tô đậm, khắc hoạ một vài sự kiên trong chính sử hoặc hình tượng hoá nó lên cho sinh động, sau này trong không khí cách tân, những học hỏi giao lưu văn chương thế giới và tầm tư duy dân chủ mới mà xã hội mang lại đã khiến các tác giả tiến một bước dài cả về cách nhìn nhận lịch sử lẫn tư duy nghệ thuật. Nhu cầu gửi gắm những thông điệp mang tinh thần mới của thời đại đã kéo theo những thủ pháp xây dựng hình tượng, cũng như việc sử dụng một ngôn ngữ cách tân theo những quy chuẩn mới.

© 2008 talawas