trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
  1 - 20 / 884 bài
  1 - 20 / 884 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Văn họcVăn học Việt Nam
17.8.2005
Nguyễn-Khoa Thái Anh
Chốn vắng của Dương Thu Hương
 
(Bản Anh ngữ: No Man's Land, dịch giả: Nina Mc Pherson và Phan Huy Đường, ISBN I-4013-6664-3, U.S.: Nhà xuất bản Hyperion East, 402 trang, $24.95)

Nhà văn Dương Thu Hương, người phụ nữ miền Bắc quả cảm đã cống hiến quãng đời thanh xuân của mình cho cuộc đấu tranh vì lý tưởng chống Mỹ cứu nước để rồi sau “giải phóng” miền Nam năm 1975 đã phải "ngồi bệt xuống vệ đường Sài Gòn bưng mặt khóc" [1] cho một thiên đường đánh mất, có lẽ là một trong những ngòi bút và tiếng nói trong nước lên án nhà nước Việt Nam mạnh dạn nhất.

Rất tiếc tiểu thuyết Chốn vắng của bà chưa được ấn hành bằng tiếng Việt ở hải ngoại. Như mấy quyển tiểu thuyết sau này - Fragments of A Life, 1989; Novel Without A Name (Tiểu thuyết vô đề), 1995; Memories of A Pure Spring (Hồi quang của mùa xuân), 2000 - No Man's Land (Chốn vắng, viết xong 1998) chỉ được xuất bản bằng tiếng Anh ở Hoa Kỳ (2005) đang tiếp tục gây tiếng vang cho tác giả. Ngoài Những thiên đường mù (Paradise of the Blind) đã được xuất bản trong nước một thời gian ngắn trước khi bị cấm, với ba quyển tiểu thuyết cuối cùng được xuất bản bằng tiếng Anh ở ngoài nước, Dương Thu Hương đã tạo cho mình một chỗ đứng ở Hoa Kỳ và châu Âu. Còn độc giả Việt thích đọc nguyên bản Chốn vắng có lẽ phải chờ thêm một thời gian nữa, xem ở hải ngoại có ai đủ bặt thiệp và sức thuyết phục để đảm trách vai trò in ấn với sự ủy nhiệm của tác giả hay không.

Qua văn phong bóng bẩy, đầy thi vị của No Man's Land, độc giả không cảm thấy mình đọc truyện dịch mà trái lại như được xem một cuốn phim ly kỳ đầy màu sắc, hương vị và tình tiết éo le. Biến chuyển tài tình của cốt truyện, nghệ thuật tả chân không nhân nhượng, và nghệ thuật chuyển ngữ xuất sắc của hai dịch giả Phan Huy Đường và Nina McPherson đã mang lại cho người đọc cảm tưởng như đang thưởng thức một tuyệt tác Anh ngữ. Hai dịch giả này đã hợp tác với tác giả ở ba tác phẩm và nếu không lầm thì ông Phan Huy Đường dịch từ tiếng Việt sang tiếng Pháp và sau đó bà Nina McPherson chuyển từ Pháp văn sang Anh văn. Được biết bà Nina Mc Pherson có du lịch và nghiên cứu về Việt Nam, nên đã có một số vốn liếng về Việt Nam. Trong một truyện dịch dài trên 400 trang, người thạo tiếng Việt không khỏi phát hiện được một số từ ngữ dịch chưa chuẩn, thí dụ như: chim lợn (danh từ miền Bắc) được dịch là “pig bird” thay vì “owl” là chim cú mèo (từ miền Nam), đậu xanh (mung bean) thành đậu vert (French green beans), măng thành tre (bambo thay vì bamboo shoot) và một vài câu ca dao tục ngữ dịch sai ý. Nhưng xét trên tổng thể, No Man's Land là một truyện dịch mà các tác phẩm được chuyển ngữ khác khó sánh được.

Chốn vắng lần lượt xoay quanh khoảng non một chục nhân vật chính sống ở Thôn Núi (Mountain Hamlet), miền Bắc Trung bộ vào thời hậu “giải phóng” (sau 1975). Câu chuyện bắt đầu bằng một cơn giông tố thịnh nộ theo gót cô Miên trở về làng sau một chuyến đi tìm mật ong trên núi, nhưng rồi không như cơn giông qua mau và chóng tàn kia, khi cô rẽ đám đông đang vây quanh đầu ngõ để vào nhà, (độc giả cùng) cô bị một cú sét đánh ngang đầu: bóng ma của người chồng cũ tưởng đã chôn cất cùng với quá khứ nay lại tìm về án ngữ cuộc sống hạnh phúc êm ấm của cô.

Bổn, người chồng mà cô lấy vội trước khi anh lên đường ra trận, sau mười bốn năm biệt tăm, chỉ nghe tin đã thành liệt sĩ, nay lại lặn lội trở về sau nhiều năm luân lạc, kể cả một thời gian được người vợ Lào cứu sống và phụng dưỡng trên vùng sơn cước. Sự xuất hiện của Bổn giữa đám dân làng không phải là chuyện vinh quy bái tổ, không có chiêng trống hay khải hoàn ca của nhà nước đón mừng, nhưng một bàn tay vô hình đã cắt đặt và đề cử sự hy sinh của một người khác, một thiếu phụ đã lập gia đình, để đền bù cho người lính đã hi sinh quãng đời trai trẻ của mình cho lý tưởng ấy cái phần thưởng mà vì nghĩa vụ nên chưa kịp hưởng.

Đương nhiên sau cuộc đoàn tụ bất ngờ đó, xã hội còn nặng tinh thần phong kiến của làng xã Việt Nam đã tiếp tay quyền lực, gián tiếp ràng buộc và áp lực cô Miên phải rời bỏ Hoan, người chồng yêu quý và lý tưởng của mình - một nông thương gia khá giả và nhân từ - để đón nhận một số phận mới, ngang trái và hẩm hiu. Từ một cuộc sống sung túc chuyển sang một chòi nhà tồi tàn, Miên phải gò bó trong cuộc sống mới với một kẻ thân tàn ma dại mà nay chỉ còn là hiện thân của một quá khứ nguội nhạt, hậu quả của mội mối tình thời non trẻ quá vắn số. Từ thuở ban đầu quen biết, rồi cưới hỏi, đến khi Bổn lên đường chinh chiến, cuộc tình của hai người chỉ diễn ra trong vài ba tuần.

Bổn không những đã trở thành cái bóng mờ trong tim óc người thiếu phụ còn son trẻ - người đã một con với Hoan, người chồng đã cùng nàng xây 12 năm tổ ấm, sau khi nàng chịu tang Bổn hai năm - mà còn mang bệnh liệt dương, thân thể teo tóp, đầu óc nhỏ nhen. Anh mang bệnh tính của những cú sốc tâm thần do hệ quả của binh lửa (người Mỹ gọi là Post Traumatic Stress Syndrome/PTSD), lẫn lộn giữa hư và thực, lúc nào cũng bị ám ảnh bởi một quá khứ khốc liệt của chiến tranh đến độ không những thân thể yếu đuối, cày không hay (nằm liệt giường hai ngày sau nửa buổi làm vườn), tình không biết, nên vô tích sự trong việc chăn gối. Có những lúc không thể đương đầu với cuộc sống thực tại, Bốn lại lui về nương náu trong thế giới hư cấu của anh. Vì thần trí bất an, nhiều lúc Bổn không sống trong thực tại mà đang vấn an hoặc than trách chuỗi ngày đã qua với hồn ma của của người trung sĩ trung đội trưởng đã bỏ mạng trong một trận đánh long trời lở đất do bom napalm Mỹ. Kết cuộc chỉ riêng Bổn còn sống sót.

Chuyện hồi tưởng hay hội ý với người trong quá khứ, Bổn làm thường xuyên và cũng đều đặn như chuyện đi cầu cạnh để Già Phiếu (một người đàn ông ngoài sáu mươi mà vẫn cường dương, có vợ trẻ và đông con) mách nước cho anh chinh phục lại vùng đất còn màu mỡ. Tưởng đã chiếm được thể xác của Miên, chỉ cần thời gian để tẩm bổ và hồi dương rồi có con với nàng thì Bổn sẽ có tình yêu và mái ấm gia đình. Nhưng qua cách thử nghiệm những bí quyết gia truyền do quân sư Phiếu chỉ điểm, độc giả thương hại Bổn hẳn đã có những phen dở mếu dở cười với những hành vi tình ái cố gắng thái quá của anh. Điều không buồn cười là tình yêu không thể thu phục bằng những toan tính hay mưu mô ti tiện mà trong trường hợp này có lẽ chỉ trông chờ ở một giải pháp cao đẹp hơn. Những vụ “tam tinh hải cẩu bổ thận hoàn” (tiếc rằng thời đó không có Viagra), hái dược thảo, máu và dái dê của Bổn đã đưa đến một kết cục quái gở giữa hai người.

Trong khi đó Hoan phải gánh chịu cảnh oan trái, ôm nỗi niềm đau khổ đi xa, để lại cho vợ ngôi nhà lớn để lui tới (khi nàng muốn) và bé Hạnh, đứa con trai 5 tuổi được bà chị trông nuôi. Cái cử chỉ lặng lẽ quân tử, số tiền lớn mà chàng trao lại cho Miên trước khi chia tay (cũng là phần lớn số tiền Miên đã chi để thuốc thang cho Bổn) cũng như những ơn huệ chàng trao cho dân làng đã nói lên phần nào con người của Hoan. Chàng chỉ còn biết giải sầu qua những xáo trộn nội tâm hoặc hồi tưởng những lúc sống với mối tình không chân dung ở miền duyên hải, một mình trên nhà sàn trong những đêm không trăng sao, chờ đợi người đàn bà dai dẻo; hoặc theo bạn trai đi thăm viếng những cuộc mua vui thể xác rẻ rúng khác.

Nhưng đến khi người đàn ông quả cảm này chứng nhận được chuyện cam chịu đau khổ và ý tưởng muốn tháo gỡ nỗi tù túng của Miên thì Hoan đã nhận thực được sự hy sinh vô lý của mình và ra tay thi hành kế hoạch để giải thoát người vợ yêu quí.

Đây quả là một cuộc chiến tâm lý thu phục nhân tâm đầy đủ tính cách "thiên thời, địa lợi, nhân hòa" và đến khi bản chất lật lọng của Bổn đã không được làng nước và ngay cả Xa, người bạn thân đồng ngũ của anh dung túng nữa thì kết cục cũng đã được đoán trước. Khi Bổn được về dưới mái nhà của Hoan chung sống với Miên và ông Lư, người quản gia trung tín của Hoan, và được Miên chăm nuôi, người đọc không tránh khỏi ước muốn sự việc sẽ cải hóa được Bổn, nhưng từ chuyện dự định cưỡng hiếp nàng cho đến chuyện mượn súng săn của Xa để giết Hoan, cho đến khi chủ tịch xã và chủ tịch hội đồng nhân dân xã quyết định xử lý âm mưu thâm độc đó, thì có lẽ sự cáo chung của chế độ đen tối đã thành hình. Bổn không thể vin vào hậu thuẫn của bạn đồng ngũ và dân chúng nữa, khi bị lãnh cú bộp tai chát chúa của Xa.

Do đó chuyện kết tinh hắc ám - hòn máu của Bổn trong bụng của Miên - cái thai lớn dần là một thấp thỏm, hồi hộp, một lời nguyền rủa. So với chuyện đứa con sơ sanh ở đoạn kết, có phải tác giả đã kéo màn cho ánh sáng hy vọng về một tương lai sáng sủa hơn?

Và đến kết cục, khi Bổn đã nhập cuộc hàn huyên được với vị trung sĩ trong một thế giới mới thì mọi chuyện có lẽ đã được tọa hóa và công lý an bài.

Đây không chỉ là một chuyện tình éo le tay ba, hay là những mảnh đời trong xã hội thôn dã thời hậu chiến mà chính là một thế giới thu gọn của Việt Nam, bao hàm ý nghiã của cục diện đương đại. Cái hay của Dương Thu Hương không chỉ nằm trong lời văn hay kết cấu của cốt truyện mà chính ở cái bố cục "thiện thắng tà", một triết lý nhân hậu, rất thuần Việt, bất chấp hiện trạng bi đát của con người. Cái khéo của Dương Thu Hương là đã vượt qua được chính thân phận cay đắng của mình, của đất nước để chuyển đạt một thông điệp tươi sáng đến với quê hương, một sự bắt mầm, một hy vọng đang vươn lên trong màn đêm, một cách tài tình và bóng bẩy.

Độc giả có thể thấy trong Bổn hình ảnh của một số lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam, biểu tượng của những ý đồ nhỏ nhen, cố chấp, tham quyền cố vị và bám víu; Hoan là hiện thân của một thế lực dân chủ, một chính thể ngay thẳng giàu mạnh và bao dung, ngay cả khi thua trận hay thắng thế lúc nào cũng là một nguồn lực dồi dào giúp cho sự sinh tồn của đất nước. Miên là mảnh đất miền Nam màu mỡ và trù phú hay chính là cả đất nước Việt Nam đang trông chờ sự gỡ trói ra khỏi thế bí, giải thoát khỏi sự ám chướng hoen ố của bóng ma quá khứ.

Ngòi bút tả chân của Dương Thu Hương thật mãnh liệt và táo bạo, cho ta thấy cảnh tồi tàn của Việt Nam thời hậu chiến, tưởng chừng mùi hôi thối của những ngõ ngách, hẻm hốc, mương cống, nhà chứa, hay ngay cả bệnh thối mồm kinh niên của Bổn đã xông lên tận mũi. Bù lại, độc giả không khỏi hình dung hay mường tượng đến những màu sắc, âm thanh hay những hương vị đậm đà khác của quê hương như tiếng sóng vỗ, mùi mặn của nước biển, tiếng gió hú trên những buôn thượng du, mùi thơm ngào ngạt của những đồng nội rợp hương thơm của các loài hoa, mùi đất và cây cỏ sau cơn giông. Hay là thực tại hơn: đám diều hâu vỗ cánh chập chờn theo dấu chân tàn lực của Bổn để rỉa rúc vào cái xác anh kéo lê lết sau lưng mà chúng đã mổ ăn hơn một nửa?

Còn gì thực hơn đối với những cựu chiến binh (nhất là đối với Dương Thu Hương), hình ảnh quen thuộc của những cảnh chiến trường khốc liệt, máu me và chết chóc, một ván cờ thí bắt đầu và kết thúc bằng sự hy sinh đắt giá đến tột cùng của dân tộc mà ngày nay chính quyền Hà Nội vẫn rêu rao cho chính nghiã của cuộc chiến thắng vừa qua, cho một bóng ma tàn của quá khứ đã và đang được dùng làm lý cớ cho sự trường tồn của bạo quyền?

Chẳng lẽ chỉ riêng tác giả - một trong những người đã hy sinh để đóng góp cho quá khứ của chiến thắng đó - mới có quyền ước mơ cho một đất nước Việt Nam công bằng và tươi sáng hơn?

California, July 2005

© 2005 talawas



[1]Phỏng vấn Dương Thu Hương do đài Little Saigon thực hiện, 30 tháng 4, 2001.