Ðã có một thời
người ta bài trừ hai chữ
trực thăng và thay nó bằng mấy chữ
máy bay
lên thẳng, vì
trực thăng là
"từ Hán-Việt", một thứ
từ ngữ "ngoại lai", "đi mượn của người Hán", tức là từ của
tiếng nước ngoài, còn
lên thẳng là từ "thuần Việt", là
sản phẩm "cây nhà lá vườn" đáng tự hào của người Việt Nam "chính
cống", tức người "Kinh", người "Giao Chỉ", người
"Keo" hay người "Yuôn".
Việc sử dụng nhiều các từ Hán-Việt được
nhiều người coi là một hành vi lạm dụng, thậm chí vô đạo đức, cần tránh đến mức
tối đa, nhất là khi đã có sẵn những từ "thuần Việt" có thể dùng đề
thay thế, và việc thay thế này được coi là một nghĩa cử có tác dụng "giữ
gìn sự trong sáng của tiếng Việt", một trong những nhiệm vụ hàng đầu của
mọi công dân nước Việt. Việc thay thế trực thăng bằng lên thẳng
đã từng được đánh giá là "một thắng lợi vẻ vang của chủ nghĩa yêu nước", "một thành tựu lớn lao
trong việc bảo vệ nền văn hoá dân tộc".
Ðến khi
trong kỹ nghệ hàng không lần lượt xuất hiện những kiểu máy bay cất cách theo
chiều thẳng đứng, không cần chạy trên mặt đất để lấy đà, tức là "lên
thẳng" thực sự, nhưng lại tuyệt nhiên không phải là "trực
thăng", người ta mới thấy "hố", bèn vội vàng dùng lại hai
chữ trực thăng.
Những
trường hợp tương tự và những tình trạng lúng túng mà phong trào bài xích
"từ Hán Việt" gây ra cũng còn thấy có với những từ ngữ như phi
công, bị thay bằng giặc lái (từ này được thay bằng người
lái khi dùng cho phi công của ta: ai nấy đều đã được nghe anh hùng không
quân Nguyễn Văn Cốc nói trên Ðài phát thanh "Tôi là người lái nhân dân
Việt Nam"); giáo cụ trực quan bị thay bằng đồ dùng để dạy,
không phận bị thay bằng vùng
trời; hải phận bị thay bằng vùng biển (trong khilãnh thổkhông
hề bị thay bằng vùng đất)[1];
hoả tiễn bị thay bằng tên lửa[2]
; công tố viên bị thay bằng ủy viên buộc tội;
tuần dương hạm bị thay bằng tàu tuần biển, v.v., v.v.
[3]
Vậy thiết tưởng cũng nên xét
lại xem nội dung của hai khái niệm Hán-Việt và thuần Việt là
gì, để thấy rõ hơn việc bài trừ các từ ngữ Hán-Việt và tìm cách thay thế
nó bằng những từ ngữ "thuần Việt" có phải là một biện pháp
"giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt" hay không.
Trước hết phải nói ngay rằng
không làm gì có những từ có thể gọi một cách chính xác là "thuần
Việt", nếu định nghĩa đó là những từ do chính người Việt (dân tộc Việt)
sáng tạo ra từ đầu, chứ không bắt nguồn từ tiếng nói của một dân tộc hay một
tộc người nào khác. Trước khi có tiếng Việt hiện đại đã từng có một thời đai mà
tiền thân của nó là tiếng Việt-Mường, bắt nguồn từ một chi của tiếng Môn-Khmer.
Liệu có thể nói rằng những từ ngữ Việt Mường là "thuần Viêt" không, hay nói rằng những từ ngữ Môn-Khmer
là "thuần Việt-Mường" không? Khó lòng có thể nói như vậy, vì có thể
khẳng định rằng tiếng Việt-Mường là một ngôn ngữ khác chứ không phải là
tiếng Việt, cũng như tiếng Môn-Khmer là một ngôn ngữ khác chứ không phải
là tiếng Việt-Mường. Vậy có thể coi những từ Môn-Khmer hay những từ Việt-Mường
là "thuần Việt" không? Hay đó là những từ mà tiếng Việt đã vay mượn
của tiếng Môn-Khmer hay tiếng
Việt-Mường? Khó lòng có thể chọn một trong hai cách trả lời, vì cả hai đều
không đúng.
Thật ra phải nói rằng đó là
những từ Việt có nguồn gốc trong một ngôn ngữ "mẹ" (hay "ngôn
ngữ bà ngoại") của chính nó[4],
có khác với những từ Thái, những từ Mã Lai, những từ Hán hay những từ Ấn Âu,
vốn bắt nguồn từ những ngôn ngữ không có quan hệ thân tộc với nó.
Vậy
tại sao không nói đó là những từ vay mượn? "Từ vay mượn"(emprunts,
loan words) là một khái niệm cần được định nghĩa trên quan điểm lịch sử, và
trên cơ sở một cái mốc đánh dấu sự thành hình của ngôn ngữ đang xét. Kể từ cái
thời đại mà tiếng Việt-Mường chẳng hạn, có thể coi là đã thành hình như một
ngôn ngữ, hay nói cho đúng hơn, một ngữ trạng (état de langue) có những đặc
trưng khiến nó có thể coi như không còn là thứ tiếng trước kia (hay ngữ trạng
trước kia) nữa, thì những từ ngữ mà nó du nhập từ những ngôn ngữ khác có tiếp
xúc với nó có thể coi là những yếu tố vay mượn, trong khi những từ ngữ mà
"mẹ nó" vay mươn lại không thể coi là như thế, vì những từ ngữ này đã
là những di sản của thời trước do "mẹ nó" để lại và được nó xử lý như
những yếu tố thuộc vốn từ vựng của tiếng "mẹ đẻ". Khi những người nói
tiếng Việt-Mường không còn vay mượn những từ ngữ Thái (gạo, gà, vịt và
hơn 100 từ khác) như hồi chưa tách hẳn ra khỏi tiếng
Môn-Khmer, thì những từ này đã được nhập vào vốn từ vựng của tiếng mẹ đẻ của
họ, nghĩa là đã trở thành những từ "thuần Việt-Mường".
Ðối với các từ gốc Hán cũng
vậy, tuy ở đây tình hình có phức tạp hơn một chút. Qua hơn 1000 năm bắc thuộc,
tiếng Việt đã mượn của tiếng Hán một số từ ngữ nhiều gấp bốn lần vốn từ ngữ đã
có trước kia. Trong số từ vay mượn này, có những từ "bình dân" dần
dần được người bản ngữ đồng hoá và dần dần có được một dáng dấp ngữ âm riêng,
được dùng y hệt như những từ gốc của bản ngữ, và đến vài ba thế hệ sau khi vay
mượn, không còn bị người bản ngữ tri giác như những từ ngoại lai nữa. Bên cạnh
đó có những từ ngữ Hán đi vào tiếng Việt theo con đường "bác học", chủ
yếu là qua các văn bản hành chính sự vụ mà ngay trong các triều đại đã giành
được độc lập cũng được viết bằng chữ Hán cổ điển. Ðó chính là tiền thân của các
"từ "Hán-Việt" sau này. Những từ này có một diện mạo ngữ âm được
quy định chính xác theo các tự điển Trung quốc – theo cách chú âm bằng thủ pháp
"phiên thiết". Do đó các nhà nghiên cứu thường thấy cần phân biệt
giũa những từ ngữ gốc Hán "bình dân" và những từ
"Hán-Việt". Dĩ nhiên sự phân biệt này hoàn toàn có cơ sở. Nhưng nó
không đủ để phân biệt đối xử với những từ như đầu, tính, dân, học, hiểu được
coi như những từ "thuần Việt" và với những từ ngữ như đại
bác, tín nhiệm được coi là cần được loại bỏ trong chừng mưc có thể.
Khi dựng lên sự phân biệt
nhân tạo giữa "Hán-Việt" và "thuần Việt", người ta thường
quên mất rằng hầu hết những từ được gọi là "thuần Việt" cũng đều có
nguồn gốc ngoại quốc (Thái, Mã-Lai, Chăm, Căm-Pu-Chia, Quảng Ðông, Ấn Ðộ, v.v.)
không kém gì các từ "Hán-Việt" và các từ mới vay mượn của tiếng Pháp,
tiếng Anh. Thật ra, cái sắc thái đặc biệt mà người ta tri giác được ở các từ
Hán -Việt không phải là do một đặc trưng "ngoại quốc" gì của các từ
này. Chẳng hạn, xét về ngữ âm, các từ Hán-Việt đều có một cấu trúc âm tiết
chuẩn mực của những từ thuần Việt, như các công trình nghiên cứu cấu trúc ngữ
âm của các từ Hán-Việt đã cho thấy, chứ không có một âm hưởng là lạ như các từ
vay mượn như pa-tê, gòong, soóc, xéc, boong, tỉm xắm, vằn thắn (kể cả
những tên riêng Quảng Ðông như Cóong,
Dzếnh).
Sở
dĩ các từ Hán-Việt được một số người Việt "có học" phân biệt với các
từ "thuần Việt". trong đó có cả các từ gốc Hán được phát âm đúng như
trong tự điển phiên thiết như đầu, dân, hiểu, học, là vì những lý do
khác, không mấy khi được ý thức rõ ràng. Ðó là :
1. Những
yếu tố "Hán-Việt" không được dùng "độc lập" như các yếu tố
"thuần Việt", mà chỉ xuất hiện trong những tổ hợp hai tiếng trở lên.
Sự phân biệt này trở nên quan trọng và có dáng "khoa học" kể từ khi
giới học giả Việt Nam phát hiện ra cái chuẩn tắc hình thức của phái ngữ học
miêu tả dùng sự khu biệt giữa " bound forms và"free formslàm nguyên tắc toàn
năng và tuyệt đối quyết định mọi thao tác phân tích và thuyết minh ngôn ngữ
học.
Thật
ra nguyên tắc này, tuy có một tác dụng thực tiễn nhất định, nhưng xét về lý
thuyết hoàn toàn không liên quan gì đến ngôn ngữ học, cho nên nếu được ứng dụng
một cách máy móc, sẽ dẫn đến những sự lầm lẫn hết sức thô lậu, như chúng tôi đã
chứng minh trong khá nhiều bài vở, và như giới ngữ học thế giới sau những năm
30 đã thấy rõ. Riêng trong lĩnh vực đang xét, nó dẫn tới những kết quả phi lý
sau đây :
quốc ca |
là một từ |
nhưng |
dân ca |
là hai từ |
súng trường |
–------ |
–- |
súng ngắn |
–---- |
hải quân |
–------ |
–- |
không quân |
–---- |
Cái
chuẩn tắc thô thiển này phủ nhận tư cách từ của tất cả những từ bao giờ
cũng đi với một phụ ngữ (bổ ngữ hay định ngữ); đó là các vị từ ngoại động
(transitive verbs) như nai (lưng) hay các danh từ đơn vị (unit
nouns) như chiếc (đũa) chẳng hạn, và làm nảy sinh ra những sự ngộ nhận
đáng xấu hổ trong lý thuyết ngữ học phổ thông, như khái niệm "loại
từ" ("classifier") chẳng hạn, mà mãi gần đây (đến tận 1994) vẫn có người ta còn chưa thấy rõ tính phi
lý.
2. Trong tiếng Việt, các từ "Hán-Việt" làm thành một lớp riêng, có những
đăc trưng ngữ pháp (a) và tu từ (phong cách học) (b) riêng.
a. Về ngữ pháp, các từ tổ
Hán-Việt tuy cũng chứa đựng những mối quan hệ cú pháp (đẳng lập hay chính phụ)
rõ rệt không kém các từ tổ "thuần Việt", nhưng mối quan hệ cú pháp
này chặt hơn nhiều, một phần là nhờ cái "trật tự ngược" (phụ trước
chính sau) so với các từ tổ thuần Việt.
Chẳng hạn quan hệ cú pháp
chính phụ trong xạ thủ hay phi công chặt hơn nhiều so với mối quan hệ tương đương trong người
bắn hay người lái : trong khi xạ thủ Nam chỉ có thể hiểu một
cách, thì người bắn Nam không cho biết đó là kẻ đã bắn anh Nam hay là
người lính tên là Nam (chắc hẳn cách
hiểu thứ nhất (trọng âm [111]) tự nhiên hơn cách hiểu thứ hai (trọng âm [011])
[5].
Tính chất "chặt"
của môí quan hệ cú pháp này giữa hai từ"Hán-Việt" làm cho các từ tổ tương tự dễ được hiểu đúng hơn
nhiều khi được dùng làm thuật ngữ chuyên môn (khoa học hay kỹ thuật), nhờ đó mà
khi cần cấu tạo một thuật ngữ, từ "Hán Việt" bao giờ cũng có ưu thế
hơn hẳn từ "thuần Việt", tuy có một thời, nhân danh tính "đại
chúng", người ta đã thay những thuật ngữ như khủng long hay
nhược điểm bằng những thuật ngữ như thằn lằn kinh khủng
[6]
hay điểm yếu (đến bây giờ thuật ngữ sau lại bị thay nhầm bằng yếu
điểm, vốn có nghĩa khác hẳn). Hồi ấy, người ta còn yêu cầu đặt thuật ngữ
khoa học làm sao mỗi người chỉ cần biết đọc chữ quốc ngữ là hiểu ngay được nội
dung. Phải chi có thể làm được như vậy, thì có lẽ toàn dân ngay từ sáu bảy tuổi
đã không còn phải đi học nữa, vì đã hiểu được đủ thứ khái niệm như nguyên
tử, điện tử. lượng tử, tích phân, vi phân, v.v. sau khi những từ Hán-Việt
được chuyển thành từ "thuần Việt".
"thuần Việt" dễ hiểu thật, nhưng đó chính là nhược
điểm lớn nhất của nó, vì khi một thuật ngữ quá dễ hiểu, thì cách hiểu "quá
dễ" ấy có rất nhiều xác suất là lối "vọng văn sinh nghĩa" – tức
là cứ nhìn chữ mà đoán mò ra nghĩa, cho nên có thể sai hoàn toàn. Trong nhiều ngành, trên thực tế đã có hàng
ngàn thuật ngữ được hiểu như thế, chẳng hạn như tình thái, hàm nghĩa, ngữ
dụng, sở chỉ, v.v. là những thuật ngữ có vẻ dễ hiểu đến nỗi ai cũng cho là mình hiểu rồi, cho nên không thấy
cần đọc sách nữa.
Chính
tính chất trừu tượng, khó hiểu (?) của thuật ngữ Hán-Việt tránh được cho ta cái
hiểm họa ấy.
b. Về
phương diện ngữ nghĩa, hầu như ai cũng đã thấy từ lâu rằng phần lớn các từ Hán
Việt đều có một sắc thái ngữ nghĩa (hay tu từ) khiến cho nó khác một cách khá
rõ với các từ thuần Việt dường như
đồng nghĩa với nó. Ðó là sắc thái "trang trọng", hay "thi
vị", hay "cổ kính", hay "bác học", hay "mờ
ảo"của các từ Hán-Việt. Ðiều đáng ngạc nhiên là lẽ ra cái sắc thái đặc thù
ấy phải cho thấy ngay rằng những từ ấy đã trở thành những từ
"thuầnViệt" từ lâu, chính vì trong tiếng Hán nó không hề có, thì
ngược lại nó lại được dùng như một cái cớ để bài bác và để tìm đủ cách loại
trừ.
Trong
tiếng Hán, nữ chỉ có nghĩa là "gái", phụ nữ chỉ là
"đàn bà", trượng phu là "đàn ông" (hay
"chồng"), hoa đăng chỉ là "đèn hoa/bông", sơn
động chỉ là "hang núi", lam sơn chỉ là "núi
xanh", tử sĩ chỉ là "quân lính chết", mãnh hổ chỉ
là "con cọp mạnh", tràng kỷ chỉ là "cái ghế dài", lôi
vũ chỉlà "mưa giông", phong ba chỉ là "sóng
gió", hài chỉ là "giày"[7]
Sở dĩ khi chuyển sang tiếng
Việt những từ ngữ này có được cái sắc thái "thi vị". "cổ
kính" hay "bác học" và cái sức mạnh tu từ của nó chính vì nó đối
lập với những từ ngữ "thuần Việt" (hay "nôm na"), và đó
chính là nguyên nhân làm cho nó có được cái sắc thái ngữ nghĩa hay tu từ mà nó
vốn không có trong tiếng Hán, và cái sắc thái mới ấy cũng chính là bằng chứng
hoàn toàn chắc chắn cho thấy rằng nó đã là một bộ phận hữu cơ của hệ thống từ
vựng của tiếng Việt, hay nói gọn lại, nó đã hoàn toàn trở thành những từ ngữ
của tiếng Việt, tức những từ ngữ "thuần Việt".
Chính
cái phong vị riêng (trang trọng, bác học, v.v.) của các từ ngữ Hán-Việt đã cám
dỗ một số người làm công tác tuyên truyền vận động quần chúng sính dùng loại từ
ngữ này. Ðáng lẽ nói "bàn nhanh" thì người ta thích nói "hội
ý" hơn; đáng lẽ nói "nói chuyện phiếm" thì người ta thích nói
"mạn đàm" hơn, đáng lẽ nói "đi thăm" hay "đi xem"
thì người ta thích nói "tham quan" hơn, v.v.
Trước
tình hình đó, hồi kháng chiến chống Pháp chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy cần nhắc
nhở cán bộ trong cuốn Sửa đổi lối làm việc (dưới bút danh XYZ) là nên
nói năng với quần chúng một cách giản dị hơn, dễ hiểu hơn, bình dân hơn, đừng
dùng những từ ngữ quá trang trọng, quá bác học mà thành ra khó hiểu. Nói tóm
lại, phải dùng từ ngữ sao cho thích hợp với quần chúng.
Về sau,
những lời dặn dò chí lý ấy dần dần bị hiểu sai thành một chủ trương thanh lọc
từ ngữ ngoại lai, và người ta hè nhau tìm cách thay thế những từ Hán-Việt nằng
những từ "thuần Việt", nghĩa là những từ ngoại lai khác, gốc Thái, Mã
Lai, Môn-Khmer, Ấn độ, v.v. trong khi xây dựng thuật gốc Mã Lai, gốc Chàm, gốc
Ấn, v,v., trong đó có cả những thuật ngữ khoa học và kỹ thuật.
Người
ta tưởng làm như vậy là bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt, trong khi đó chính
là làm cho tiếng Việt nghèo đi, và thay những cách nói đúng đắn, hay ho và
thích hợp với tình huống, với ngôn cảnh hay văn cảnh bằng những cách nói ngô
ngọng, lạc lỏng, thậm chí vô lễ và man rợ. Nếu gọi con gái bạn mình bằng quý
nữ chẳng hạn là lố lăng, thì gọi một người đàn bà bằng đồng chí
gái hay y tá gái cũng lố lăng không kém. Thủ tướng
gái không bằng nữ thủ tướng. nhưng đầy tớ gái lại
hơn nữ đầy tớ. Ngài Tổng thống và vợ không bằng Ngài
tổng thống và phu nhân, nhưng thằng Út nhà tôi và
phu nhân lại không bằng Thằng Út nhà tôi và vợ nó. Nói
chung những sự kết hợp không tương thích đều cho những kết quả xấu.
Gần đây
ta thấy xuất hiện những từ ngữ kỳ quặc mà lại hoàn toàn thừa, nhưng được những
người sính chữ "sành điệu" hoan nghênh, chẳng hạn như cụm từ chí
ít mà theo gương một vài nhân vật thời thượng người ta ưa dùng thay cho ít
nhất, ít ra hay tối thiểu. Từ tổ này vừa lai
căng vừa sai trái. Trong tiếng Hán cũng như trong tiếng Việt, chí không
bao giờ có ý nghĩa "cực cấp tương đối" (superlatif relatif), thường
được diễn đạt bằng hơn cả, nhất hay
tối. Nó chỉ có thể có nghĩa "cực cấp tuyệt đối" (superlatif
absolu), tức là cái nghĩa thường được diễn đạt bằng rất, lắm, như
trong chí phải, chí lý, chí tôn, chí hiếu, chí công, chí minh.
[1] Về sau từ
vùng
biển lại
bị
thay
bằng
lãnh hải
[2] Ngày trước, thứ tên có châm lửa dùng để bắn
vào những mục tiêu có thể bốc cháy được gọi là hoả hổ . Gía để dành tên
lửa để dịch thuật ngữ này thì thích hợp hơn nhiều so với cách dùng tên lửa để dịch
missile hay fusée , vì thứ "đạn" này chẳng giống mũi tên
chút nào.
[3] Ðể chứng minh rằng
tiếng Việt đủ giàu để tự cung cấp những thuật ngữ cần thiết, có người đã đề
nghị thay "Ðại hội Phụ nữ toàn quốc" bằng "Buổi sum họp lớn của đàn bà cả nước" và ở
một cuộc hội thảo năm 1979 có người đề nghị dịch các thuật ngữ chỉ tâm bệnh
tính dục như zoophily, gerontophily, necrophily, v.v. bằng những
thuật ngữ bắt đầu bằng loạn dâm như loạn dâm con vật, loạn dâm người già, loạn dâm xác chết v.v. thay
cho các thuật ngữ cũ như ái thú, ái lão, ái thi, v.v.
[4] Dĩ nhiên các thuật
ngữ này đều phải hiểu theo một nghĩa có tính chất ước định chứ không phải theo
nghĩa đen.
[5] Thí dụ của Nguyễn
Tài Cẩn (1965)
[6] Ðây là một lỗi ngữ
pháp rất nặng : kinh khủng, một định ngữ trang trí, không thể kết hợp với thằng
lằn, nhất là trong một thuật ngữ, vốn chỉ có thể chấp nhận một định ngữ hạn
định (phân loại) cf. Cao Xuân Hạo. Cấu trúc của Danh ngữ. Tiếng Việt, Mấy
vấn đề... (1998)
[7] Những từ
"Hán-Việt" không có một tử "thuần Việt" tương phản với nó
làm thành một cặp đâiệp thức (doublet),
như đầu, hiểu, đông, tây, nam, bắc, v.v. thì không có những sắc
thái tu từ này
Ðăng lần đầu trong Kiến thức ngày nay số 118
năm 1993