trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
  1 - 20 / 884 bài
  1 - 20 / 884 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Văn họcVăn học Việt Nam
1.3.2005
Hồ Quốc Đăng
Tản mạn của một trong số không nhiều người đọc còn lại
 
Sau khi Sài Gòn sụp đổ vào tháng Tư năm 1975, ba tôi bị bắt đi học tập cải tạo. Tất cả đều mất mát. Đó là những chuỗi ngày cơ cực. Sự lên ngôi của giai cấp mới đã làm khó những gia đình “ngụy quân”, “ngụy quyền” như gia đình tôi không ít. Mẹ tôi mỗi khi ra ngoài thường khóa cửa lại, nhốt anh em tôi trong nhà, vì sợ chúng tôi ra đường nghịch phá với lũ trẻ hàng xóm. Đó là sự tù túng thê thảm cho một thằng bé năng động chưa đến mười tuổi như tôi. Đôi khi tôi tự hỏi, nếu nhà cháy, làm sao anh em tôi thoát ra được. Nhưng đó có lẽ là điều duy nhất mà mẹ tôi có thể làm để bảo vệ những đứa con nhỏ của bà trước thế giới đầy bất trắc bên ngoài. Những ngày bị nhốt trong nhà đó cũng là khoảng thời gian tôi đã khám phá ra kho tàng sách vở của ba tôi: sách tiếng Anh, tiếng Pháp, và dĩ nhiên rất nhiều sách tiếng Việt.

Vào thời điểm đó, tất cả sách vở miền Nam trước 1975 đều bị coi là văn hóa phẩm đồi trụy, phải giao nạp và bị tịch thu. Tôi đã thấy từng đống sách vở “đồi trụy” đó bị vất bừa ra đường, hay đem cân bán ve chai cùng với chai lọ, đồ nhựa... Trong sự nghèo khổ, cái gì cũng có thể mua bán được. Một buổi chiều mưa tầm tã Nha Trang, tôi đến nhà đứa bạn chơi, lúc về, ngang một nhà in sách trên đường Trần Quí Cáp, thấy một núi sách bị vất ra trước nhà, ướt át dơ dáy. Tôi đứng lại xem xét, không hiểu sao lại mang về một cuốn kinh Phật. Đôi khi nhớ lại, tôi không hiểu những suy nghĩ nào đã thúc đẩy một thằng bé mang về nhà cuốn sách ướt sũng, dơ dáy như vậy. Có lẽ tôi đã lờ mờ cảm thấy niềm trắc ẩn, buồn rầu nào đó khi nhìn thấy một đống rác sách vở.

Tôi cũng không hiểu điều gì đã cho mẹ tôi sự can đảm để giữ lại tất cả sách vở của ba tôi, dù gia đình tôi thường xuyên bị công an khu vực và tổ nhân dân hậm hoẹ khám xét nhà. Ngay trong những ngày túng quẫn nhất sau 1975, mẹ tôi cũng chưa bao giờ cân bán ve chai một cuốn sách nào. Có lẽ đó là tình yêu mà mẹ tôi dành cho ba tôi chăng? Tôi thấy tất cả những gì thuộc về ba tôi, mẹ tôi đều nâng niu giữ gìn. Những cuốn sách của ba mà mẹ tôi giữ lại đã làm cho sự bị nhốt trong nhà của tôi bớt phần khổ sở. Trong một lần lục lọi đồ đạc của ba tôi, (cái kho tàng phong phú cho một tuổi thơ thiếu thốn mà trong đó tôi đã tìm được quẹt zippo, con dao găm trong bọc da, những bức ảnh trong các cuốn sách tiếng Anh, tiếng Pháp...), tôi đã cầm lên cuốn “Tây du ký” và rồi không thể bỏ xuống được. Sau đó là “Tam Quốc chí”, “Hán Sở tranh hùng”. Tôi đọc ngấu nghiến luôn cả “Chiến tranh và Hòa bình”, “Câu chuyện dòng sông”,… những cuốn tiểu thuyết, văn thơ miền Nam trước đây.

Sau đó, tôi khám phá ra không chỉ riêng tôi, mà rất nhiều đứa bạn con nít như tôi cũng ghiền đọc truyện. Chúng tôi trao đổi sách với nhau để thỏa mãn sự ghiền đó. Với một cuốn “Tam Quốc chí” tôi có thể đổi được một cuốn chuyện chưởng “Anh hùng xạ điêu” hay “Thần điêu đại hiệp”; “Chiến tranh và Hòa bình” đổi được “Pappillon, Người tù khổ sai”; rồi “Z-28”, truyện Tuổi hoa, Duyên Anh; những cuốn văn thơ tiền chiến Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu; những cuốn truyện rất người lớn của Nguyễn Thị Hoàng, Nhã Ca, Mai Thảo, Dương Nghiễm Mậu. Đọc không hiểu vẫn đọc, vì vớ được cuốn nào là đọc cuốn đó. Đôi khi những bộ truyện được đọc đầu Ngô mình Sở, chẳng đâu vào đâu cả. Có khi đọc cuốn cuối của một bộ kiếm hiệp xong, cả năm sau mới có cơ hội đọc cuốn hai, và chẳng bao giờ được đọc cuốn đầu. Đó là một tuổi thơ thiếu thốn nhưng thần tiên ở Nha Trang của tôi và đám bạn: tắm biển, đá banh, cờ tướng, đọc sách. Những cuốn sách đã mang tuổi thơ tôi đến những khung trời viễn mộng, dù những cuốn sách có thể vượt quá tầm hiểu biết nông cạn của tôi. Tôi đã thấy thằng bạn của tôi nằm lỳ ba ngày trong nhà bỏ ăn bỏ ngủ để đọc cho xong bộ “Tam Quốc chí”, nước mắt đầm đìa khi đọc đến đoạn Quan Công chết. Đó là nước mắt của thằng bé đọc “Tam Quốc chí” lúc 13, 14 tuổi, không thấy được rằng chính sự kiêu ngạo của Quan Công đã dẫn ông đến cái chết, khởi đầu cho sự diệt vong của nhà Thục. Tôi đã thấy nụ cười thần tiên trẻ thơ của em gái tôi khi đọc một cuốn truyện Tuổi hoa tôi cho mượn dưới ánh đèn đường tờ mờ (vì Nharang lúc này bị cúp điện một tuần ba bốn đêm, mà mẹ tôi thì không cho đọc sách dưới đèn dầu, sợ hư mắt). Cái khổ sở và sợ hãi nhất của bọn tôi là mỗi khi đem những cuốn sách này ra đường, trong những chuyến trao đổi. Với tai mắt công an đầy dẫy, tụi tôi đã nhét những quyển sách dày cộm dưới áo hay trong quần rồi cắm cổ chạy. Tuy vậy, cũng không ít lần, chúng tôi bị công an rượt đuổi và tịch thu sách, bị lãnh những cái khỏ đầu, bạt tai đau điếng.

Điều tôi muốn nói ở đây là sự yêu thích văn chương, sách vở mà tôi đã thấy ở những người quanh tôi vào thời điểm tôi lớn lên ở Việt Nam. Một hình ảnh rõ ràng và đậm nét trong ký ức tuổi thơ của tôi là hình ảnh ba tôi đọc sách bình thản mỗi tối trước khi ngủ. Đốm lửa đầu điếu thuốc chốc chốc rực sáng, mùi thuốc lá Sa-Lem thơm thơm. Ngoài kia có thể là đêm rất bình yên lộng gió Nha Trang, hay đêm sặc mùi chiến tranh vọng về những tiếng đì đùng pháo kích, ánh hỏa châu rực sáng lơ lửng rồi lụi tàn ở Tuy Hòa, với ba tôi lúc đó, hình như chỉ còn ông và cuốn sách đang đọc. Khuôn mặt ông trầm tư và bình thản lạ lùng. Mẹ tôi cũng vậy, rất thích sách vở. Sau 1975, tuy phải buôn bán ngược xuôi tần tảo nuôi con, nuôi chồng cải tạo, mẹ tôi vẫn giữ được niềm yêu thích đọc sách. Những lần có được cuốn sách hay để đọc, mẹ tôi đã vất chuyện bán buôn qua một bên, không ra chợ để nằm nhà đọc truyện.

Sau này lớn lên, tiếp xúc với nhiều người khác nhau, tôi thấy hình như rất nhiều người ở miền Nam thế hệ trước tôi có một kiến thức tổng quát rất rộng, phát xuất từ sự yêu thích văn chương nghệ thuật. Ở trại tị nạn khoảng hai mươi năm trước đây, trong những nhà tranh vách nứa, bên cạnh bình trà, tôi đã nghe những anh thanh niên lớn tuổi hơn bàn luận về Camus, Sartre, Nietzsche, về Thượng Đế, về Bùi Giáng, Phạm Công Thiện,… một cách đầy mê hoặc. Mặc dù chỉ mười mấy tuổi, không hiểu biết gì về triết lý, về hiện sinh, về cuộc đời, tôi vẫn thấy cuốn hút bởi sự yêu thích văn chương chân thành của những người đang nói chuyện, cảm thấy thích thú vì những cuốn sách, những tác giả mà họ nhắc đến, tôi cũng đã bắt gặp đâu đó từ việc đọc ngấu nghiến bất kể trước đây của mình. Vì vậy, dù không hiểu lắm, tôi cảm thấy rất tâm đắc. Ở Mỹ, sau này tôi được quen biết nhiều người thế hệ này, rất thân. Cái thân thiết đôi khi bắt đầu từ những tương đắc về sách vở, văn thơ. Những người bạn tuổi đời chênh lệch này đã xong tú tài ở miền Nam trước 1975, học đại học, đi lính, cải tạo, rồi vượt biên, rồi học hành lại, cũng bằng cấp khoa bảng ở Mỹ. Họ sống một cuộc sống bình thản, không quan tâm, không tranh đấu. Những người bạn này ít khi nói về cuộc chiến ý thức hệ Nam-Bắc, ít nói về những trận đánh khốc liệt mà họ đã dự phần, dù tôi rất thích thú nghe. Nếu có, họ lại nói về một cuộc chiến với những mất mát vô nghĩa. Rồi trong vô thức, nghĩ về những ngày tháng cũ, họ có thể bất chợt nói: “Túy ngoạ sa trường quân mạc tiếu, cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”. Họ hỏi bâng quơ: “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi, ông biết không?”. Tôi thấy thú vị. Văn chương như đã thấm vào người họ, không cần giải thích. Chỉ thế, rồi họ im bặt, như không có gì để nói thêm. Đôi khi, bên cạnh những ly trà sau tô phở, họ lại bất chợt nói: “Chiến tranh ghê quá, ông biết không, mình tính sai một bước, anh em đi hết”. Họ nói mà không hề để ý rằng người đối diện với mình chỉ chưa đến 10 tuổi vào năm 1975. Rồi họ nói lảng sang chuyện khác: chuyện thời tiết, football, hãng xưởng, em út; rồi lại bất chợt nói về một vài câu thơ của Tô Thùy Yên hay ai đó: “Thế giới vui từ những lẻ loi”, chẳng hạn. Đôi khi họ nhắc đến triết lý, nói về đạo Phật, nhưng có thể nói từ góc độ hiện sinh, hay từ những lý thuyết vật lý hiện đại với cái nhìn của người làm việc kỹ thuật. Những tranh luận triết lý-văn chương nhẹ nhàng, nói xong để quên, hôm khác nói tiếp. Những người bạn này, họ yêu mến văn chương, dù rằng chưa bao giờ cầm bút viết điều gì. Tôi nghĩ nếu viết, có thể họ sẽ viết hay.

Ngoài những người bạn gần gũi này, tôi cũng thấy nhiều người yêu văn chương khác vào khoảng năm 1985 khi tôi đến Mỹ. Những gia đình Việt Nam mà tôi biết khi đó, nhà nào cũng có khá nhiều sách. Lang thang từ miền Tây sang miền Đông Hoa Kỳ, tôi thường nghe người ta đọc và bàn luận về Nguyễn Ngọc Ngạn, Nguyễn Mộng Giác, thơ Cao Tần, có người nhắc đến Thế Giang, Nguyễn Ý Thuần, Ngô Nguyên Dũng, và nhiều người nữa. Nhiều tác giả mới và cũ viết khá đều, và người Việt trên bước đường lưu lạc trong thời gian đầu hội nhập xứ người vẫn còn yêu văn chương lắm. Họ là những người đọc bình thường như tôi: đọc để tìm lại chút âm hưởng quê hương, để cảm nhận thân phận con người Việt Nam trong những hoàn cảnh xã hội khác nhau. Hình như cái ma lực hấp dẫn của văn chương tiếng Việt trước 1975 vẫn còn lẩn quẩn đâu đó.

Nhưng điều gì đã xảy ra từ năm 1990? Sức sáng tạo của văn chương hải ngoại đã chậm hẳn lại. Những nhà văn viết nhiều trước đây, nay viết ít lại hay tắt hẳn. Những cây viết mới xuất hiện lẻ tẻ, nhưng hình như không gây được tiếng vang sâu rộng, dù ở nơi đông người Việt sinh sống. Và sự thiếu vắng độc giả mà nhiều nhà văn, nhà phê bình Việt Nam kêu ca, tôi cũng đã nhận thấy. Nhiều người tôi quen giờ đây ít đọc sách hẳn đi. Vài hôm trước, đến một tiệm sách khu trung tâm người Việt ở San Jose để mua cuốn “Trăng huyết” của Anthony Grey và Nguyễn Ước, tôi đã không tìm thấy. Nhìn quanh chỉ thấy vài bộ kiếm hiệp, một dãy hồi ký tướng tá, sách tử vi, truyện người lớn cấm trẻ em, lèo tèo vài tuyển tập truyện ngắn, tạp chí... Một người mua sách học tiếng Anh, một người khác mua cuốn tự điển Anh-Việt. Tần ngần định đi về, chợt nhớ là đã đọc đâu đó cuốn “Câu chuyện dòng sông” vừa được dịch lại và bổ sung từ nguyên bản tiếng Đức, tôi hỏi chị bán sách có cuốn này hay không. Chị nói có và đưa tôi một ấn bản ở Việt Nam giá 8 dollars. Chị nói cuốn này Việt Nam họ in lại từ sách Sài Gòn trước đây. Tôi nói thôi. Cuốn này thì tôi đọc lúc nhỏ ở Việt Nam, vài năm trước một người bạn mượn từ thư viện ra đọc xong có cho tôi mượn lại. Mẹ tôi cũng có cuốn này ở nhà. Quanh quẩn ở tiệm sách, cuối cùng tôi mua cuốn “Tuyển tập hai mươi năm văn học Việt Nam hải ngoại 1975-1995” giá 60 dollars. Cuốn này xuất bản đã mười năm rồi. Vài bài viết tôi đã đọc đâu đó trên internet. Nghĩ cũng ngán ngẩm khi nhìn thấy chân dung già nua, phong trần của những tác giả trong tuyển tập, và sẽ phải đọc lại những dòng văn chương lưu vong hay nhân chứng, tuy rằng 10 năm trước tôi đã có thể rất thích thú. Tuy vậy tôi vẫn mua, để đọc từ từ. Biết đâu mươi, hai mươi năm sau đọc lại thấy hay. Tôi ở thành phố Palo Alto, cách khu đông người Việt khoảng nửa tiếng lái xe, nên cũng ít khi ra đây, ngoại trừ những lúc ăn uống. Tôi hỏi chị bán sách ở San Jose còn tiệm sách Việt Nam nào khác không. Chị nói hình như đã đóng cửa hết rồi. Một bác đứng gần đó nói, vốn bỏ ra cho tiệm sách nặng quá, ít người mua, sống không nổi. Tôi không rõ điều đó có đúng không, nhưng cảm thấy ngậm ngùi vì ở một nơi đông người Việt như San Jose, cũng chỉ có một tiệm sách Việt Nam khá khiêm tốn.

Sự thiếu vắng người đọc sách hình như xảy ra không chỉ riêng ở hải ngoại mà còn ở trong nước. Tôi có nghe bài nói chuyện của Phạm Thị Hoài ở UC Berkeley. Phạm Thị Hoài nói nơi thị trấn nhỏ miền Bắc bà ở, những năm chiến tranh, bà đã đọc được những quyển sách rất hay trong một thư viện nhỏ. Bây giờ trở về, thư viện không còn nữa, cả một thị trấn không có tiệm bán sách, chỉ có những tụ điểm chơi điện tử; những ngôi nhà bà đến thăm không có một ấn phẩm nào ngoài sách giáo khoa và lịch treo tường. Một cảnh tượng có vẻ futuristic gây cho tôi ấn tượng đậm nét. Tôi nghĩ đến những điều đã đọc, một ViệtNam với thế hệ trẻ @ thường “chat” trên mạng và ít đọc sách.

Năm năm trước, lần duy nhất tôi về Việt Nam. Một buổi tối không có chuyện để làm, tôi cố gắng kiếm một cuốn sách để đọc, tôi chỉ tìm được một cuốn sách mà tôi đã quên tên, chỉ nhớ là một tuyển tập truyện ngắn xuất bản khoảng năm 2000, được giải thưởng văn học Việt Nam. Những truyện ngắn kể về những Việt kiều sống ở Úc, Mỹ, những người tuy có một cuộc sống giàu có nhưng đau khổ. Ai cũng ly dị, nếu không tự tử thì mang bệnh tâm thần. Tập truyện viết rất tầm thường, cho thấy cái nhìn phiến diện, đầy mặc cảm và thiếu thiện cảm của tác giả với cộng đồng người Việt hải ngoại, không hiểu sao lại được một giải thưởng văn học. Số ấn bản của cuốn sách hình như khoảng 2000. Số lượng người đọc ít ỏi có thể thấy được qua số lượng ấn hành sách ở Việt Nam bây giờ. Lần về thăm Việt Nam đó, tôi tìm mua bộ sách “Thơ văn Lý Trần” khắp các nhà sách ở Sài Gòn nhưng không thấy. Hỏi những tiệm sách, họ nói cuốn đó chỉ in vài ngàn cuốn, không biết khi nào mới tái bản.

Người làm văn học hải ngoại thường than vãn độc giả Việt ít đọc sách, ít mua sách, và đôi khi phàn nàn độc giả không bắt kịp những trào lưu văn học thế giới mà các nhà thơ, nhà văn đang thể nghiệm. Tôi nghĩ vấn đề nằm ở chỗ những gì mà các nhà văn, thơ sáng tác có đáp ứng được nhu cầu của người đọc không. Chẳng hạn như ba mẹ tôi vẫn bỏ nhiều tiền để mua sách, nhưng không phải sách về văn chương, thơ phú. Ở tuổi trên sáu mươi, họ không quan tâm đến những trào lưu văn học nữa, họ mua rất nhiều sách triết lý đạo Phật. Họ để ý nhiều về vấn đề tâm linh hơn. Thế hệ nào cũng có những nhu cầu riêng tư của thế hệ đó. Ở Mỹ, những người Việt tôi quen biết, rất nhiều người khoa bảng và thành công, cũng không coi văn chương Việt Nam là một nhu cầu thiết yếu nữa: cuộc sống, gia đình, công việc, shopping, party, những phù phiếm bận rộn ở một xứ dư thừa vật chất. Coi một cuốn phim hay 2 tiếng đồng hồ hoặc đọc một cuốn sách tiếng Anh xem chừng lý thú và an toàn hơn phải ngồi đọc những thứ văn chương Việt Nam đầy “chất thải” hiện nay.

Những năm gần đây không ít những diễn đàn văn học trên internet xuất hiện. Mạng lưới toàn cầu đã mang con người lại gần nhau hơn. Khoảng năm 1989, có người còn nhờ tôi vào thư viện Echols ở Đaị Học Cornell tìm bài thơ “Chiều trên phá Tam Giang” của Tô Thùy Yên. Bây giờ thì không cần thiết nữa. Những bài thơ như vậy giờ đây nằm đầy trên mạng. Những tác phẩm văn chương mới sáng tác cũng đến với người đọc dễ dàng và mau chóng hơn. Những trào lưu, nỗ lực làm mới thơ cũng xuất hiện. Với sự cổ vũ “cách tân” triệt để, hình như một số người làm thơ phải làm khác đi với những cái mượt mà lãng đãng của những dòng thơ cũ. Người đọc chợt bắt gặp những trào lưu thơ mới, khi mà những từ ngữ tục tĩu, những hình ảnh thô tục tràn ngập những bài thơ của một vài nhóm thơ cách tân. Điều ngạc nhiên là họ đã “tiếp thị” loại thơ này đến với người đọc với một thái độ thách thức ngạo mạn và thô lỗ. Có một số bài viết xung quanh loại thơ này. Người cổ vũ, kẻ chê bai. Nhưng tựu trung vẫn là những nhà thơ, nhà văn khen chê lẫn nhau. Người đọc bình thường hững hờ không ai lên tiếng, dù có thể họ ái mộ hay nhờm tởm đến đâu. Người đọc cảm tưởng đây chỉ là một trò nhảm nhí, tầm phào, mang tính cách triết lý giả tạo và phản thẩm mỹ thô bạo dưới vỏ bọc hậu hiện đại.

Vừa qua, giờ ăn trưa, không đi ra ngoài với bạn bè, tôi ở lại sở làm, vừa gặm bánh mì vừa đọc vài bài viết trên mạng. Như thường lệ, tôi mở vài trang web tin tức tiếng Mỹ, rồi đến talawas, tienve... Có một bài thơ mới xuất hiện của Đinh Linh, một nhà thơ “đương đại” hình như khá nổi tiếng, nếu đọc phần tiểu sử và những phỏng vấn về ông trên những diễn đàn internet. Bài thơ tựa đề “Phật Du” [1] khiến tôi tò mò. Tự nhiên tôi nghĩ đến bài thơ “Cãi Phật” [2] với những câu khá thú vị: “Phật bảo đời người như bể khổ. Ta cười sướng khổ bổ sung nhau. Còn sống còn vui còn múa hát. Khổ đau như nước chảy qua cầu”. Sự liên tưởng này càng khiến tôi háo hức muốn đọc bài thơ của Đinh Linh. Bài thơ của Đinh Linh có những câu như: “Khi hù ai, bạn có thể hằn, “Đừng phật với tao!” / Khi xù ai, bạn có thể nạt, “Phật xuống!” / Khi chém ai, bạn có thể quát, “Tao sẽ phật mày lên!”. Đọc bài thơ, tôi phải ngừng lại một thoáng, và ngỡ ngàng nhận ra Đinh Linh đang chơi chữ, đánh tráo giữa chữ “fuck”, một từ tục tĩu trong tiếng Mỹ, với từ Phật trong tiếng Việt. “Phật Du” là “fuck you”, nôm na tiếng Việt là “Đ.M. mày”. Đinh Linh là một nhà thơ sáng giá được nhiều người nhắc đến thời nay. Bài thơ (vô nghĩa) khiến tôi, một người đọc bình thường, hiểu ra rằng những bất trắc phù phiếm của cuộc sống cũng có thể hiện ra ngay trong một buổi trưa bình yên đọc thơ trên internet. Những cảm tưởng khó chịu làm tôi cảm thấy tiếc đã không đi ra ngoài ăn trưa với những người bạn.

Đọc thơ Nguyễn Quốc Chánh, người đọc cảm nhận nỗi chán chường nhức nhối, cái bực tức vô vọng trên một quê hương đầy rẫy những đau khổ, đói nghèo, độc đoán. Đọc “Giữa truyền thống chạy rông & thủ đoạn phủ sống”, người đọc có thể thấy được những nhầy nhụa, khổ đau của Sài Gòn qua những hình ảnh rất hiện thực: “Cậu hai ơi / tôi Mỹ Tho lên / tôi nghèo lắm /... mua giùm tôi bánh cuốn nóng /... mua giùm đi... Tự cấu má, những đứa trẻ lòi xương ngáp... đứa bé suy tim ngất...”. Nguyễn Quốc Chánh viết: “ngủ ngày và chơi đêm. Thành phố bị dìm trong hỗn độn, những con đường nứng suốt. Sài Gòn gãy cặc.” Người đọc thông cảm với những trăn trở rất thực trong bài thơ, nên vẫn có thể chấp nhận được hình tượng “Sài Gòn gãy cặc”, dù họ khó tính. Nhưng từ ý tưởng này, nhà thơ nữ Miên Đáng đã cường điệu thành một bài thơ hậu hiện đại ăn theo tục tĩu và nghèo nàn ý tưởng. Bài “Mất trinh” [3] với những câu: “Chỉ có cái nứng chịu gào cơn khát tình. Là mi: thiên thần giống đực lủng lẳng hai dái, thiên thần giống cái sưng vù hột le. Biểu hiện cho tư tưởng vĩ đại của cái dâm, sao chưa sáng tạo ra một cái nứng?! ... Việt Nam ngứa mép sida, phơi nắng đợi vi trùng bốc hơi. Phừng phừng vụt nứng, cái tôi lộm cộm lông nách. Ngày hôm qua hỏi cội nguồn cái móng vừa mọc, hôm sau đã đứt lìa nằm trong bao ni lông. Không có băng vệ sinh bọc dòng nước rỉ, màng trinh rách đỏ lòm!” Đọc một số bài thơ khác của nhóm Mở Miệng, người ta cũng thấy những hình ảnh thô tục như vậy: “Giời đất ơi! Vợ hắn hôm nay bất ngờ có kinh. Không ngủ được, suốt đêm hắn lục đục ra vào toa lét cả thảy 6 lần... móc cặc ra. Xóc lọ”; hoặc: “Mấy tháng gần đây, hễ xục cặc là tao há hốc mồm vì thiếu thốn gì đó. Miệng, vú, lồn, cặc...”; hoặc: “Lâu lắm không làm thơ, hôm nay bắt tay lại. Thấy dễ dàng quá, đâm chán. Có một thằng, cứ làm được bài thơ người đọc khen - lập tức tự thưởng bằng chuyến đi chơi đĩ. Một thời gian dài không thấy xuất hiện, hỏi thì biết: Dạo này túng quá, không đủ tiền mua gạo, lấy tiền đâu chơi đĩ mà mần thơ”. [4]

Những bài thơ này được người làm thơ cố ý làm cho mới lạ, nhưng không đủ sức thuyết phục người đọc với những gì họ muốn nói. Nhìn từ góc độ người đọc, văn chương chỉ là một món ăn tinh thần bên cạnh những món ăn tinh thần khác như phim ảnh, ca, kịch,... Phần lớn người đọc ít biết và cũng không quan tâm lắm đến những lý thuyết, những trào lưu văn chương. Những từ ngữ hình ảnh tục tĩu này có thể là một sự mới trong giới làm thơ, vì từ trước đến nay chưa nhà thơ nào dám viết trắng trợn như vậy, nhưng đối với người đọc, chúng là những thứ quá cũ, quá nhàm vẫn nghe thấy trong đời sống tạp nhạp hàng ngày. Vì vậy, sự lạm dụng tục tĩu trong thơ nhanh chóng đưa đến tình trạng bão hòa cảm thức. Một sự bão hòa nhờm chán. Cứ tạm cho là những loại thơ đáng chán này là một cách thể hiện phản kháng và xả bầu tâm sự (tức giận) của những nhà thơ trong môi trường thiếu sự tự do sáng tạo như ở Việt Nam, hay một cách gián tiếp phơi bày một hiện thực Việt Nam nhậu nhẹt, đầy rẫy tệ nạn đĩ điếm, nhưng với cách diễn đạt như vậy có thuyết phục được người đọc không? Theo tôi và một số bạn bè, với tư cách những người yêu văn chương Việt Nam hải ngoại lẫn trong nước, câu trả lời chắc chắn là không!

Một cô bạn của tôi, sinh viên năm thứ tư trường đại học kinh tế ở Sài Gòn bây giờ, một trong số ít ỏi những người trẻ còn để ý đến văn chương, cho tôi biết cảm thấy rất nhờm tởm vì những hình ảnh thô tục của loại văn chương này. Và cô bâng khuâng hỏi tôi, không biết cô có quê mùa, lạc hậu so với văn chương hiện đại lắm không. Tôi nghĩ về người bạn vẫn còn lang thang ở những tiệm sách cũ Sài Gòn, để tình cờ mua được “Nẻo về của ý” cũ mèm. Cô viết: “Ông bán sách cũ này ác quá, lấy của em tới tám chục ngàn đồng, em trả giá hoài không được. Cuốn này do Lá Bối xuất bản năm 1961 đó anh”. Người bạn sinh viên ở Sài Gòn này vẫn đọc “Nẻo về của ý” lần thứ hai để thấy cảm xúc khác với đọc lần đầu, vẫn cảm thấy thơ Nguyên Sa và Tô Thùy Yên hay, thì so với những trào lưu văn thơ thời nay, có lẽ cô bé đã lạc hậu mất rồi. Nhưng tôi tự hỏi điều gì đã làm cho những cuốn sách như “Nẻo về của ý” được nâng niu từ thế hệ này sang thế hệ khác, trở thành bạn đồng hành tinh thần của biết bao người. Tôi nói với người bạn rằng, hy vọng những loại văn chương tục tĩu chỉ là hiện tượng nhất thời, rồi nó sẽ qua đi. Tôi nói với cô đừng quá bi quan, vì vẫn còn rất nhiều bài thơ theo chiều hướng mới, nhưng được sáng tác với sự cẩn trọng, thông minh, và sự chịu khó suy nghĩ của người viết, chẳng hạn:

“Đó là một ngày nhiều mây và các khuôn mặt được giữ lại bằng đèn flash
Tôi đi chậm chạp ra khỏi những cái nhìn

Mùa thu như một người già nhập cư mặc quần áo cũ
Lạc lõng và phiền trách các đổi thay
Không phải tôi là một người lắm lời, tôi chỉ không giữ được bí mật
Sự vô vọng của các kết hợp khiến tôi muốn được nghe
Tiếng của những chiếc lá rụng vào ngực
Một người nằm dài dưới gốc cây
Với quả lựu đạn trong túi quần” [5]

Vừa qua, lang thang trên talawas vào giờ trưa ở sở làm, cũng vào một ngày không ra ngoài với bạn bè, tôi tình cờ đọc bài viết của GS Hoàng Ngọc Hiến về văn học của người Việt hải ngoại. Đọc bài chuyên luận này, kết quả công trình nghiên cứu do William Joiner Center tài trợ (xong năm 2001), tôi tưởng chừng như văn chương người Việt hải ngoại đã dừng lại ở năm 1990. Hoàng Ngọc Hiến đã dẫn chứng những cuốn sách quá cũ vào thời điểm ông nghiên cứu văn chương hải ngoại, năm 2000. Hình như không cuốn sách nào xuất bản sau năm 1990 được nhắc đến. Điều này có thể vì ông Hoàng Ngọc Hiến chỉ có những tiếp cận hạn hẹp với văn chương hải ngoại (như ông đã phân bua trong bài viết, nếu vậy thì thật đáng tiếc cho một công trình nghiên cứu gây nhiều tranh cãi trong cộng đồng người Việt hải ngoại), hay thật sự do không có nhiều tác phẩm văn chương xuất bản sau 1990. Không lẽ sau những năm đầu bộc phát, những tác giả hải ngoại không còn gì để viết nữa; phải chăng sự thiếu vắng độc giả và cuộc sống mệt mỏi đã dập tắt những khao khát, những cảm hứng. Và cũng chính vì người đọc nhận thấy không có sách hay, họ trở nên ít đọc sách. Một cái vòng lẩn quẩn.

Vào thời điểm từ 1975 đến những năm 90, thời kỳ nở rộ của văn chương hải ngoại, các nhà văn cũng đã không thật sự phản ảnh được đời sống tâm tư của giới trẻ. Phần lớn văn chương thời này tập trung vào các đề tài như tố cáo cộng sản, thân phận con người trên đường vượt biển tìm tự do, hoài niệm quá khứ, tủi nhục vất vả trong cuộc sống hội nhập xứ người... những tâm tư của người viết, những người đã có tuổi. Trong khi đó, một số rất đông người Việt tị nạn là những thanh niên Việt Nam trên bước đường lưu lạc đang tập tễnh bươn chải vào đời trên xứ người. Với thanh niên (và một số vị trung niên) trong khoảng thời gian trước năm 1990, cái chi phối tâm tình họ nhiều nhất là nạn trai thừa gái thiếu. Điều này dễ hiểu vì đa số gia đình người Việt cố gắng cho con trai đi vượt biên thay vì cho con gái. Sự cô đơn tình cảm của lớp thanh niên hải ngoại trong thời gian này gần như là triền miên. Vừa qua, trong một buổi gặp mặt cuối tuần của một số bạn bè, trong tiếng cười đùa trò chuyện, một vài người đã nhắc đến nạn trai thừa gái thiếu trong thời gian này. Một người bạn đàn bà khá đẹp bất chợt thốt lên: “Nhiều anh chàng theo đuổi tranh giành con gái quá thành hèn luôn”.

Đôi khi tôi nhớ đến một tên bạn ở Canada sang Boston làm việc thời đó. Một lần đánh bài tiến lên giữa ba mạng đực rựa (không kiếm ra được tên “mít” thứ tư cho đủ bộ) vào lúc 2 giờ sáng tối thứ Sáu trong căn hộ một phòng của hắn, ngoài trời tuyết rơi mịt mùng, tên bạn tợp một ngụm bia, rít hơi thuốc lá, rồi bỗng văng tục: “Đ. m. xứ gì mà đàn bà Việt Nam hiếm hoi quá, riết rồi quên biết nứng là gì”. Tôi mỉm cười tự nghĩ, mấy anh chàng này, tại sao phải cứ con gái Việt Nam.

Lại nhớ đến buổi tiệc đón Tết năm 1989 tại trưòng đại học Cornell mà tôi theo học, một nơi cách biệt ở miền đông bắc nước Mỹ. Trường ở thành phố Ithaca, bang New York, là nơi rất ít người Việt, nên tình đồng hương nơi này khá đậm đà. Mỗi lần có party do sinh viên Việt Nam tổ chức, chúng tôi đều mời người Việt trong vùng, không cần thiết phải là sinh viên, đến chung vui. Có người phải lái xe bốn năm tiếng mới đến nơi. Những bữa tiệc vào cửa không lấy tiền, đồ ăn ngon được bọn sinh viên chúng tôi lấy free từ những nhà hàng Việt Nam trong vùng. Sau phần ăn uống và văn nghệ bỏ túi của đám sinh viên là màn nhảy đầm. Tôi thì nhiều bạn bè, nên mời hết người này đến người khác nhảy. Với những tình bạn không ý đồ, những nụ cười bao giờ cũng hồn nhiên. Tôi chợt nhận thấy TV, một trong những cô bạn rất thân và cũng rất đẹp, đang ngồi trên bàn, chân vắt vẻo đung đưa, cưòi cười nhìn mọi người dìu nhau theo tiếng nhạc chachacha, tango, disco, new wave. Tôi thấy nhiều anh chàng đến mời TV nhảy, nhưng cô đều lắc đầu cười từ chối rất lịch sự. Sau đó, tôi đến mời TV, cô gật đầu nhưng hỏi tôi: “Mình qua phía bên kia được không anh?”. Tôi ngạc nhiên: “Được, nhưng tại sao?”. TV nói: “Nãy giờ em từ chối nhiều người, bây giờ nhảy với anh, em thấy ngại quá, sợ họ buồn”. Lúc đó, trong cái lạnh tuyết giá của một đêm tháng Hai ở miền đông bắc nước Mỹ, tôi chợt cảm thấy thấm thía nỗi cô đơn, sự cần thiết một người con gái Việt Nam, sự chua xót não nùng của những người đàn ông con trai với những lần bị từ chối. Ngoài ra, còn bao nhiêu tâm tình khác của thế hệ này, một thế hệ thanh niên Việt Nam xa quê hương, sống một cuộc sống thiếu thốn về vật chất lẫn tinh thần. Tôi sống xa gia đình một mình ở Mỹ từ năm 16 tuổi, lang thang nhiều nơi từ San Jose đến Buffalo, Ithaca, Princeton, Boston. Tôi có những bạn bè đi làm nhà hàng Tàu hay những công việc với đồng lương tối thiểu, khuya về ngồi tụm năm tụm ba bên ly cà-phê, điếu thuốc, triết lý cùn về đời, về “em”; tôi cũng có những người bạn khác là dân học rất giỏi từ những đại học nổi tiếng như Cornell, Harvard, Princeton, Columbia, MIT... Những năm tháng này, ở đâu tôi cũng thấy nhiều thanh niên người Việt mang một tâm thức cô đơn, thiếu vắng tình yêu trai gái. Những tâm tình của cả một lớp thanh niên đó đã không được phản ánh trong văn chương hải ngoại. Viết đến đây, tự nhiên tôi nghĩ đến một bài thơ vừa đọc [6] , trong đó có những câu:

“Ở Sài Gòn khách sạn xoàng xĩnh một hai sao anh Việt kiều lùn bảnh bao hai tay khoác vai hai cô gái thon cao

anh tóc muối tiêu trán bóng giày cũng bóng - thành quả lao động của quá nhiều trẻ đánh giày trên đường phố - nện bước tự tin đưa hai cô lên lầu”.

Tôi tự hỏi có những liên hệ nào giữa người trai trẻ Việt Nam với tâm thức lưu đày thèm khát tình yêu một người con gái đồng hương trên xứ người mà tôi đã gặp nhiều năm trước, với anh Việt kiều lùn bảnh bao hôm nay tại một khách sạn xoàng xĩnh ở Sài Gòn.

Trở lại vấn đề văn chương thời bây giờ. Tôi thấy trong tranh luận giữa những người viết, ai cũng nhân danh bạn đọc để cho rằng con đường mình đi là đúng. Nhưng thật ra người viết có bao giờ tự hỏi bạn đọc của mình là ai, cần đọc gì hay không? Tôi chia sẻ nhận xét của một vài người bạn là với phong trào làm mới văn chương bây giờ, nhiều thứ đáng chán đang được thải ra chỉ nhằm “self-promotion”. Nhiều bài thơ, văn không nói lên được điều gì đã được vất lên mạng chỉ để kiếm chút danh vọng. Có lẽ qua mạng lưới internet, chỉ đối diện với máy điện toán khi viết, những nhà văn, nhà thơ có cảm tưởng mình “vô hình” nên có thể mạnh tay làm những điều đáng chán chăng? Chỉ có người đọc là bị tra tấn phũ phàng thô bạo. Theo thiển ý của tôi, người chịu khó đọc sách, theo dõi văn chương ngày càng ít đi, cả hải ngoại lẫn Việt Nam. Chính vì vậy người viết càng nên viết cẩn trọng, chân thành. Thể nghiệm những đường hướng sáng tác mới là chuyện đương nhiên của văn chương, là điều đáng mừng cho người đọc. Nhưng chỉ có những thể nghiệm có tính nghệ thuật mới không khiến người đọc quay lưng lại với văn chương.

Tôi viết những dòng tản mạn này chỉ với hy vọng giúp người viết hiểu thêm đôi chút về bạn đọc của mình. Những bạn đọc không còn nhiều trong thời buổi này.

© 2005 talawas



[1]Phật Du – Đinh Linh -- http://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do
[2]Cãi Phật -- Nguyễn Bắc Sơn
[3]Đọc Nguyễn Quốc Chánh và Miên Đáng ở www.tienve.org
[4]Hâm nóng chảo thơ – Lý Đợi http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=1632&rb=0101&von=
[5]Bài mùa thu – Phan Nhiên Hạo
[6]Nô lệ hậu hiện đại – Vũ Quỳnh Hương: http://www.gio-o.com/Tet2005VuQuynhHuong.html