Khủng hoảng trong Giáo hội Công giáo - Những mâu thuẫn của Giáo hoà ng
Đối với bên ngoài, Giáo hoàng
John Paul II can dự một cách năng động vào vấn đề chiến tranh và áp
bức, là người soi đường cho những ai ngóng chờ tự do. Nhưng bên trong,
nhiệm kỳ phản cải cách của ông đã đẩy Giáo hội Công giáo La Mã vào một
kỷ nguyên khủng hoảng tín nhiệm.
Giáo hội Công giáo hiện khắt khe kinh khủng. Giáo hoàng đang trong cơn
trọng bệnh và xứng đáng với mọi thương cảm dành cho ngài. Nhưng Giáo
hội thì vẫn phải sống, và khi nhìn vào việc tuyển chọn Giáo hoàng mới,
nó cần được chẩn bệnh, một sự phân tích không tô vẽ của người trong
cuộc. Việc trị liệu sẽ được bàn đến sau.
Nhiều người kinh ngạc trước quyền lực còn lưu lại của người đứng đầu
Nhà thờ Công giáo La Mã, mà một phần cơ thể đã tê liệt và hết sức yếu
ớt, và dù có đủ mọi thuốc thang, cũng chỉ để duy trì việc phát biểu.
Ngài được đối xử bằng sự tôn kính mà sẽ không bao giờ có ở một tổng
thống Hoa Kỳ hay một thủ tướng Đức, nếu trong cùng tình trạng. Những
người khác thì cảm thấy bị trì hoãn bởi một giáo phẩm mà họ xem là
ngoan cố, thay vì chấp nhận danh thơm muôn đời của một người Cơ đốc,
lại đang sử dụng mọi công cụ tùy nghi của mình để duy trì quyền lực
trong một hệ thống hết sức phi dân chủ.
Ngay cả đối với nhiều người Cơ đốc, vị Giáo hoàng này, tại điểm cuối
của sức mạnh vật lý, đang từ chối lui khỏi sức mạnh quyền lực, là biểu
tượng của một Giáo hội không trung thực, đã “vôi hóa” và lão hóa đằng
sau mặt tiền lộng lẫy của nó.
Tâm trạng hội hè rộ lên trong thời điểm của Công đồng Vatican II
(1962-1965) đã biến mất. Quan điểm của Vatican II về đổi mới, nhận thức
Thiên chúa giáo thống nhất, và sự cởi mở chung của thế giới Thiên chúa
giáo nay dường như phủ đầy mây mù và mờ mịt tương lai. Nhiều người đã
từ chức hay thậm chí quay lưng, do sự vỡ mộng trước hệ thống giáo bậc
chỉ biết đến mình này. Kết quả là nhiều người phải đối mặt với những
lựa chọn bất khả kháng: “Tham gia trò chơi hay rời khỏi Giáo hội”. Niềm
hy vọng mới chỉ bắt đầu từ tận gốc rễ, nếu các quan chức Nhà thờ ở Rome
và hệ thống giáo mục có sự định hướng lại, theo kim chỉ nam của Phúc
âm.
Một trong những le lói ít ỏi của hy vọng này là lập trường của Giáo
hoàng chống cuộc chiến Iraq và chống chiến tranh nói chung. Vai trò của
vị Giáo hoàng người Ba Lan trong việc góp phần mang lại sự sụp đổ của
đế chế Soviet cũng được nhấn mạnh, và đúng như thế. Nhưng nó cũng đã
được cường điều quá mức từ những nhà tuyên truyền của Thánh cha. Chế độ
Soviet không phải sụp đổ vì Giáo hoàng (trước khi Gorbachev nắm quyền,
những gì Giáo hoàng có được cũng chỉ như ngài hiện đang có được ở Trung
Quốc), mà từ sự bùng nổ của những mâu thuẫn nội tại về kinh tế và xã
hội của hệ thống Soviet.
Theo tôi, Karol Wojtyla không phải là người vĩ đại nhất, mà chắc chắn
là người nhiều mâu thuẫn nhất - vị Giáo hoàng của thế kỷ 20 đầy mâu
thuẫn. Một Giáo hoàng của nhiều tài năng bẩm sinh và nhiều quyết định
sai lầm! Có thể tóm lược nhiệm kỳ của ngài thành mẫu thức chung như
sau: “chính sách ngoại giao” đòi hỏi sự thay đổi, cải cách và đối thoại
từ phần còn lại của thế giới. Nhưng điều này mâu thuẫn sắc nét với
“chính sách đối nội” của ông, hướng đến việc phục hồi nguyên trạng thời
kỳ tiền Công đồng, ách tắc cải cách, từ chối đối thoại trong nội bộ
Giáo hội, và sự thống trị chuyên chế của Rome. Sự mâu thuẫn này thể
hiện rõ rệt ở nhiều phạm vi. Trong khi hoàn toàn thừa nhận những mặt
tích cực của đời Giáo hoàng này, vốn nhận được những nhấn mạnh chính
thức, cùng lúc tôi sẽ tập trung vào chín mâu thuẫn nổi bật nhất.
Nhân quyền:
Đối với bên ngoài, John Paul II ủng hộ các quyền con người, trong khi
với bên trong lại từ chối chúng đối với các giám mục, các nhà thần học,
và đặc biệt là đối với phụ nữ.
Vatican, đã từng là một kẻ thù kiên định của quyền con người, nay hoàn
toàn sẵn lòng gia nhập vào nền chính trị Châu Âu - phải ký vào Tuyên ngôn
Nhân quyền của Uỷ hội Châu Âu. Trước tiên, có rất nhiều tiêu chuẩn của
luật pháp Nhà thờ La Mã chuyên chế thời trung cổ cần phải được tu
chính. Quan niệm phân quyền, hòn đá tảng của mọi thực tiễn pháp lý hiện
đại, lại không được biết đến ở Giáo hội Rome. Vì vậy, phương thức phân
quyền là một thực thể không được biết đến. Ở Vatican, trong các tranh
chấp, một và cùng một tác nhân thực hiện các chức năng của người làm
luật, công tố và thẩm phán.
Hệ quả: một hệ thống giáo mục hoàn toàn lệ thuộc và tình trạng pháp lý
bất khoan dung. Bất kỳ ai, linh mục, nhà thần học, hay người thế tục,
khi tranh chấp pháp lý với những tòa án giáo hội cấp cao, đều hầu như
không có khả năng thắng.
Vai trò của phụ nữ:
Người thờ phụng vĩ đại của Đức Mẹ thuyết giảng một quan niệm thanh cao
về phụ nữ, như cùng lúc cấm đoán phụ nữ kiểm soát sanh đẻ và cấm chỉ họ
nhận thụ phong.
Hệ quả: có sự rạn nứt giữa sự tuân thủ bề ngoài với sự tự quản nội tại
của lương tâm. Điều này khiến các giám mục, những người hướng về Rome,
trở nên không thân thiện với phụ nữ, như trường hợp tranh cãi quanh vấn
đề tư vấn phá thai (năm 1999, Giáo hoàng ra lệnh cho các giám mục đóng
cửa các trung tâm tư vấn, nơi phát hành các chứng chỉ cho phụ nữ để sau
này có thể nhận được dịch vụ phá thai). Đến lượt nó, vấn đề dẫn đến sự
xa rời ngày một tăng trong số các phụ nữ đó, trong khi họ vẫn giữ đức
tin sâu sắc.
Đạo lý tình dục:
Vị Giáo hoàng này, trong khi thuyết giảng chống lại nghèo đói và khổ
đau của thế giới, đã khiến chính ngài phải phần nào chịu trách nhiệm
cho sự khổ đau này, như là một kết quả từ thái độ đối với việc kiểm
soát sinh đẻ và bùng nổ dân số.
Trong nhiều chuyến đi, và trong một diễn văn tại Hội nghị Liên hợp quốc
về Dân số và Phát triển, tại Cairo, John Paul II đã tuyên bố chống lại
việc sử dụng thuốc ngừa thai và bao cao su. Và kết quả, Giáo hoàng, hơn
bất kỳ chính trị gia nào khác, có thể phải chịu một phần trách nhiệm
cho việc tăng dân số không kiểm soát ở một số nước và sự lan rộng của
bệnh AIDS tại Châu Phi.
Hệ quả: Ngay cả những nước theo truyền thống Công giáo, như Ireland,
Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, đạo lý tình dục khắt khe của Giáo hội Rome
và của Giáo hoàng đã bị bác bỏ công khai hay ngấm ngầm.
Đời sống độc thân của linh mục:
Bằng việc truyền bá hình ảnh
truyền thống của những nam linh mục độc thân, Karol Wojtyla chịu tránh
nhiệm chủ yếu cho sự khan hiếm linh mục một cách thê thảm, sự sụp đổ
những phúc lợi tinh thần ở nhiều nước, và nhiều scandal lạm dụng tình
dục trẻ em mà nhà thờ không thể che đậy được nữa.
Hôn nhân vẫn tiếp tục bị cấm đối với những người đã đồng ý hiến dâng
cuộc đời cho giáo mục. Đây chỉ là một ví dụ của việc Giáo hoàng, cũng
như những người trước ông, đã lờ đi những giáo huấn của kinh thánh và
truyền thống Công giáo đại lượng của niên niên kỷ đầu tiên, vốn không
đòi hỏi người mang giáo phẩm phải thề nguyền độc thân. Nếu ai đó, theo
đặc điểm giáo phẩm của mình, buộc phải sống cuộc đời không vợ không
con, thì có một nguy cơ lớn, khiến sự tương hợp sức khỏe của tình dục
đi đến sai lầm, mà minh họa là việc dẫn đến những hành động ấu dâm.
Hệ quả: Hàng phẩm cấp thưa thớt và thiếu hẳn một dòng dõi mới trong
Giáo hội Cơ đốc. Chẳng bao lâu nữa, gần hai phần ba giáo xứ, cả ở những
nước nói tiếng Đức và các nơi khác, sẽ không có các linh mục được thụ
phong và những ca tụng của lễ ban thánh thể. Ngay cả sự thiếu hụt do
giảm sút dòng linh mục từ nơi khác đến (1.400 linh mục ở Đức là từ Ba
Lan, Ấn Độ, và Châu Phi), và việc phải hợp nhất các giáo xứ thành những
“đơn vị phúc lợi tinh thần” - một hướng rất không được ưa chuộng trong
các cộng đồng đức tin, đã không thể tiếp tục che giấu được nữa. Con số
các linh mục thụ phong mới ở Đức từ 366 của năm 1990, rơi xuống 160
trong năm 2003, và tuổi trung bình của các linh mục hành đạo hiện nay
là trên 60.
Khuynh hướng thống nhất Thiên
chúa giáo: Giáo hoàng thích được
xem như người phát ngôn của khuynh hướng thống nhất Thiên chúa giáo
toàn thế giới. Thế nhưng cùng lúc với việc đặt nặng quan hệ của Vatican
với Giáo hội Chính thống giáo và các giáo hội cải cách, ngài từ chối
việc nhìn nhận hàng giáo phẩm và lễ ban thánh thể của họ.
Giáo hoàng có thể lưu ý đến lời khuyên từ các sứ vụ nghiên cứu thống
nhất Thiên chúa giáo, và theo thực tế của nhiều linh mục địa phương,
bằng cách nhìn nhận hàng giáo phẩm và lễ ban thánh thể của các giáo hội
Thiên chúa ngoài Công giáo và cho tiếp nhận sự hoan hỉ thánh thể của
họ. Ngài cũng có thể hạ giọng sự cực đoan của Tòa thánh, sự đòi hỏi
trung cổ đối với quyền lực, trong khuôn khổ của chủ thuyết và quyền
lãnh đạo của Giáo hội, đối với các Giáo hội Đông Âu và giáo hội cải
cách, và có thể gạt bỏ chính sách của Vatican về việc phái giám mục
Công giáo Rome đến các vùng mà nhà thờ Chính thống Nga chiếm ưu thế.
Giáo hoàng có thể làm những điều này, nhưng John Paul không muốn thế.
Thay vào đó, ngài muốn bảo tồn và thậm chí mở rộng hệ thống quyền lực
của Rome. Vì lý do này, ngài phải dùng đến thái độ hai mặt: chính trị
quyền lực và thanh thế của Rome được che đậy bằng những diễn thuyết
trên bục cao về thống nhất Giáo hội, trong khi hành động thể hiện thì
trống rỗng.
Hệ quả: Nhận thức thống nhất Thiên chúa giáo đã bị dừng lại sau Công
đồng, và quan hệ với Giáo hội Chính thống và Giáo hội Tin lành trở nên
nặng nề đến mức đáng kinh. Giáo hoàng, như những người tiền nhiệm ở thế
kỷ 11 và 16, đang chứng minh là một chướng ngại lớn nhất của việc thống
nhất các giáo hội Thiên chúa, trong sự tự do và đa dạng.
Chính sách nhân sự:
Với tư cách Phó giám mục, rồi Tổng giám mục ở Kraków, Karol Wojtyla
tham dự vào Công đồng Vatican II. Nhưng khi là Giáo hoàng, ngài không
lưu tâm đến tính đồng sự vốn đã được đồng ý đi đến, và thay bằng việc
ca tụng sự khải hoàn ở nhiệm kỳ của mình, với cái giá là hy sinh thanh
thế của cộng đồng giám mục.
Với “chính sách nội bộ”, Giáo hoàng đã nhiều lần phản bội số đông của
Công đồng. Thay vì sử dụng ngôn từ của chương trình hoà giải, “Hiện đại
hóa Công giáo, Đối thoại, và Đồng sự - thống nhất giáo hội”, thì cái
hiện có hiệu lực trong chủ thuyết và thực tiễn lại là “hoàn nguyên, địa
vị thuyết giảng, tuân thủ, và tái La Mã hóa”. Tiêu chuẩn để bổ nhiệm
giám mục không phải là tinh thần của Phúc âm hay tinh thần giáo mục mở,
mà là trung thành tuyệt đối với tuyến đảng phái ở Rome. Trước khi bổ
nhiệm, sự tuân giáo nền tảng của họ được kiểm chứng bằng một bảng câu
hỏi thánh tòa, và được bịt kín bằng thánh lễ thông qua một lời phát
nguyện tuân thủ cá nhân và vô hạn đối với Giáo hoàng, tương tự như một
thề nguyền đối với “Führer”
[1]
.
Bạn bè của Giáo hoàng trong số các giám mục khu vực nói tiếng Đức, gồm
Hồng y Joachim Meisner ở Köln; Giám mục Johannes Dyba ở Fulda (mất năm
2000); Hans Hermann Groer, người đã từ chức Hồng y tại Wien vào năm
1995 sau những cáo buộc lạm dụng tình dục chủng sinh trước đó nhiều
năm; Giám mục của St. Poeltin, Kurt Krenn, người đã mất chức sau một
scandal tình dục nổi lên tại chủng viện của ông. Những người này chỉ là
những sai lầm ngoạn mục nhất của một chính sách nhân sự tàn phá giáo
mục, vốn cho phép trình độ tri thức và đạo đức của giới giám mục có thể
bước đến những bước trượt dài nguy hiểm.
Hệ quả: Thành phần giám mục hết sức tầm thường, cực kỳ bảo thủ và lệ
thuộc, là gánh nặng nghiêm trọng nhất của đời Giáo hoàng kéo dài quá
mức này. Những đám đông tín hữu ở giai đoạn biểu hiện tốt nhất của Giáo
hoàng không thể lừa dối: nhiều triệu người đã rời khỏi Giáo hội dưới
nhiệm kỳ này, hoặc rút khỏi đời sống tôn giáo trong thế đối lập.
Chủ nghĩa giáo quyền:
Vị Giáo hoàng người Ba Lan xuất hiện như một đại diện tôn giáo sâu sắc
của Châu Âu Thiên chúa giáo, nhưng phong thái chiến thắng và những
chính sách phản nghịch của ngài vô tình thúc đẩy sự thù địch đối với
Giáo hội, và cả sự ác cảm đối với Thiên chúa giáo.
Trong chiến dịch của Giáo hoàng nhằm truyền bá Phúc âm, vốn tập trung
vào đạo lý tính dục, đã bước sai nhịp với thời đại, với phụ nữ, cụ thể,
với những người không chia sẻ lập trường của Vatican về những vấn đề
gây tranh cãi như kiểm soát sinh đẻ, phá thai, ly dị, và thụ tinh nhân
tạo - những người bị dèm pha là thăng tiến một nền “văn hóa chết”. Như
kết quả từ sự can thiệp - ở Đức chẳng hạn, nơi nó tìm đến những chính
trị gia có ảnh hưởng và hệ thống giám mục trong cuộc tranh cãi quanh
vấn đề tư vấn phá thai - Tòa thánh Rome tạo ấn tượng rằng họ ít tôn
trọng sự tách rời pháp lý giữa nhà nước và nhà thờ. Thật vậy, Vatican
(sử dụng Đảng Nhân dân Châu Âu như loa phát ngôn) cũng đang cố gắng tạo
áp lực lên Nghị viện Châu Âu bằng việc kêu gọi bổ nhiệm các chuyên gia
là những người đặc biệt trung thành với Rome, trong các vấn đề làm luật
liên quan đến phá thai chẳng hạn. Thay vì gia nhập vào dòng chính của
xã hội bằng việc ủng hộ các giải pháp hợp lý, Tòa thánh Rome, thông qua
các tuyên cáo và các vận động ngầm (qua các đại sứ của Giáo hoàng, Hội
nghị Giám mục, và “bạn bè”), trên thực tế đã tạo nên sự phân lập giữa
khuynh hướng thiên sự sống và thiên chọn lựa, giữa những nhà đạo đức và
những người tự do.
Hệ quả: Chính sách giáo quyền của Rome chính là giúp củng cố lập trường
của các nhà phản giáo quyền giáo điều và các nhà vô thần chính thống.
Nó cũng tạo nghi ngờ trong tín hữu rằng tôn giáo có thể đang bị lạm
dụng cho những mục đích chính trị.
Giòng dõi mới cho giáo hội:
Như một người giao tiếp lôi cuốn và một ngôi sao truyền thông, Giáo
hoàng đặc biệt có ảnh hưởng đối với thanh niên, ngay cả khi ngài đã cao
tuổi. Nhưng ngài đạt được điều này bằng việc lôi kéo một phần lớn những
“phong trào mới”, bảo thủ, có nguồn gốc Ý, phong trào “Opus Dei”
[2]
bắt nguồn ở Tây Ban Nha, và sự trung thành công khai mù quáng đối với
Giáo hoàng. Tất cả điều này là biểu hiện sự tiếp cận của Giáo hoàng đến
việc xây dựng một thành phần bình thường làm nồng cốt, và sự bất lực
của ông trong việc đối thoại với những người phê phán.
Những hoạt động lớn của thanh niên ở địa phương và quốc tế được bảo trợ
từ những phong trào mới này (Focolare, Comunione e Liberazione, St.
Egidio, Regnum Christi), và được quản lý bởi hệ thống giáo hội, thu hút
hàng trăm ngàn thanh niên, phần nhiều trong đó có thiện chí nhưng lại
có một tinh thần hết sức thiếu phê phán. Trong thời đại mà người ta
không có niềm tin vào các nhân vật lãnh đạo, số thanh niên này chịu
nhiều ấn tượng nhất từ các “show” họ được tham dự. Thỏi nam châm người
của “John Paul siêu sao” thường quan trọng hơn nội dung những diễn
thuyết của Giáo hoàng, trong khi tác động của họ trong đời sống giáo sứ
chỉ rất ít.
Giữ lý tưởng về một Giáo hội đồng nhất và tuân thủ, Giáo hoàng nhìn
thấy tương lai của Giáo hội gần như tập trung vào các phong trào bảo
thủ và dễ kiểm soát này. Điều này gồm cả việc đặt khoảng cách của chính
Vatican với quy củ của dòng Tên, vốn hướng đến giáo lý của Công đồng.
Được sự ủng hộ của các Giáo hoàng trước, những người dòng Tên, do phẩm
chất tri thức, thần học phê phán, và những chọn lựa thần học tự do, nay
được xem như những người cản trở công việc hoàn nguyên trong chính sách
của Giáo hoàng.
Thay cho lực lượng đó, Karol Wojtyla, ngay cả trong nhiệm kỳ Tổng giám
mục ở Kraków, đặt hoàn toàn niềm tin vào phong trào Opus Dei có nhiều
ảnh hưởng và quyền lực tài chính, nhưng lại phi dân chủ và mờ ám, một
nhóm có liên hệ với các chế độ phát-xít trong quá khứ và hiện tại, đặc
biệt hoạt động trong thế giới tài chính, chính trị, và truyền thông.
Trên thực tế, với việc ban cho Opus Dei địa vị pháp lý đặc biệt, Giáo
hoàng thậm chí đã tạo nên một tổ chức được miễn trừ sự giám sát của các
giám mục nhà thờ.
Hệ quả: Thanh niên thuộc các nhóm nhà thờ và giáo đoàn (trừ số phụ lễ
thay đổi), và đặc biệt là những “người Công giáo bình thường” phi tổ
chức, thường giữ một khoảng cách với những cuộc gặp gỡ của số thanh
niên đa số. Tổ chức thanh niên Công giáo nào xung đột với Vatican thì
chịu kỷ luật và bị bỏ rơi khi giám mục địa phương, theo lệnh của Rome,
không cung cấp ngân quỹ cho họ. Vai trò đang tăng lên của phong trào
Opus Dei cực bảo thủ và không minh bạch trong nhiều định chế đã tạo một
không khí bất định và hoài nghi. Những giám mục ít phê bình thì dễ chịu
với Opus Dei, trong khi thường dân một khi dính díu đến nhà thờ thì rút
lui bằng việc từ chức.
Những tội lỗi của quá khứ:
Bất chấp thực tế là năm 2000, ngài buộc mình phải công khai thừa nhận
những tội lỗi lịch sử của Giáo hội, John Paul II hầu như không rút ra
được hệ quả thực tiễn gì từ đó.
Sự thú nhận màu mè và khoa trương về những tội lỗi của Nhà thờ, đăng
đàn cùng với các Hồng y tại thánh đường St. Peter, vẫn mơ hồ, không xác
định, và hiểu sao cũng được. Giáo hoàng chỉ yêu cầu tha thứ cho tội lỗi
của “những người con trai và con gái” của Giáo hội, mà không phải cho
điều đó ở “các Thánh cha”, không phải tội lỗi của “chính Nhà thờ”,
những tội lỗi của bộ máy giáo phẩm hiện diện ở sự kiện.
Giáo hoàng không bao giờ nhận định về sự liên hệ của Tòa thánh với
mafia, và thực tế đã góp phần nhiều vào việc che đậy những scandal
không thể che đậy và những hành vi tội phạm. Vatican cũng cực kỳ chậm
chạp trong việc xử lý pháp lý những scandal xâm hại tình dục trẻ em
liên quan đến giới giáo phẩm.
Hệ quả: Sự thú nhận không thật tâm của Giáo hoàng vẫn không có kết quả,
không đảo ngược những gì trước đây mà cũng không hành động, chỉ là lời
nói.
Đối với giáo hội Công giáo, đời Giáo hoàng này, bất chấp những khía
cạnh tích cực của nó, đã hoàn toàn chứng tỏ là nỗi thất vọng lớn và,
cuối cùng, là một thảm họa. Như là kết quả từ những mâu thuẫn của mình,
vị Giáo hoàng này đã làm phân hóa sâu sắc Giáo hội, khiến nó xa lánh
trước đông đảo dân chúng, đẩy nó vào một kỷ nguyên khủng hoảng, nay
đang bộc lộ những sai lầm chí tử trong quá trình phát triển, và một nhu
cầu cải cách là hết sức cấp bách.
Đối lập với mọi ý định được truyền đạt tại Công đồng Vatican II, chế độ
La Mã trung cổ và bộ máy quyền lực với những nhân vật toàn trị đã được
phục hồi, thông qua những chính sách nhân sự và học thuật tài tình và
tàn nhẫn. Các giám mục bị dồn đến giới hạn, linh mục chịu quá tải, nhà
thần học bị khóa miệng, người thế tục bị tước bỏ những quyền của họ,
phụ nữ bị phân biệt đối xử, các hội nghị Công giáo quốc gia và những
đòi hỏi của giáo dân bị phớt lờ, dính líu và những scandal tình dục,
cấm đoán thảo luận, nhồi nhét nghi lễ, cấm các nhà thần học bình thường
thuyết giảng, khuyến khích hăm dọa, ngăn chặn các lễ ban thánh thể -
cái “thế giới trần tục” này khó mà có thể chịu trách nhiệm cho tất cả
những điều đó!
Kết cục là Giáo hội Công giáo đã hoàn toàn mất sự tín nhiệm to lớn từng
có dưới thời Giáo hoàng John XXIII và trong sự thức tỉnh của Công đồng
Vatican II.
Nếu Giáo hoàng kế tiếp tiếp tục những chính sách của đời Giáo hoàng
này, ông sẽ chỉ là củng cố những sao lưu khổng lồ các vấn đề, và biến
sự khủng hoảng cấu trúc hiện nay của Giáo hội Công giáo thành một tình
trạng vô vọng. Thay vào đó, một Giáo hoàng mới phải quyết định ủng hộ
những thay đổi đang diễn biến, và đưa Giáo hội dấn mình vào con đường
mới, theo tinh thần của John XXIII và thúc đẩy cải cách mà Công đồng
Vatican II đem lại.
Hans Küng
là một trong những nhà thần học Cơ đốc hàng đầu hiện nay. Là kiều dân
Thụy Sĩ sống ở Tübingen, thành phố miền Nam nước Đức, Küng đã khiến
mình dây vào mối oán giận với các giới thẩm quyền Giáo hội trong nhiều
thập niên. Kết quả từ những phê phán của ông đối với đời Giáo hoàng
này, là Vatican rút bỏ thẩm quyền thuyết dạy giáo lý giáo hội của ông
vào năm 1979. Dù vậy, Küng, 75 tuổi, vẫn là một linh mục và vẫn dạy
thần học thống nhất tại Đại học Tübingen, cho đến khi về hưu vào năm
1995. Với tư cách chủ tịch của Quỹ Đạo đức Toàn cầu, Küng còn là một cố
vấn của Liên hợp quốc.
Xem thêm:
Giáo hoàng John Paul II: Khi Chúa thương gọi tôi về
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/regionalnews/story/2005/04/050402_popecommentary.shtml
Cuộc đời Giáo hoàng John Paul II
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/worldnews/story/2005/04/050331_popeprofile.shtml
© 2005 talawas
[1]“Führer”:
Lãnh tụ, người dẫn đường, vốn là danh hiệu được Hitler dùng luật để tự
phong cho mình.
[2]Opus
Dei: tổ chức gồm giới giáo phẩm và các thành viên nòng cốt, hiện có mặt
ở nhiều nước, chủ trương đưa các nguyên tắc Thiên chúa giáo vào mọi vấn
đề của xã hội.