trang chủ talaCu ý kiến ngắn spectrum sách mới tòa soạn hỗ trợ talawas
  1 - 20 / 497 bài
  1 - 20 / 497 bài
tìm
 
(dùng Unicode hoặc không dấu)
tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z
Điểm nóngChính trị thế giới
Loạt bài: Xã há»™i dân sá»±
 1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11   12   13   14   15   16   17   18 
28.5.2005
Janina Frentzel-Zagorska
Xã hội dân sự ở Ba Lan và Hungary
3 kỳ
Lâm Yến dịch
 1   2   3 
 
Sự chuyển đổi của xã hội dân sự sau 1981

Thiết quân luật đã thay đổi về cơ bản các điều kiện trong đó xã hội dân sự Ba Lan được thành hình. Tuy nhiên quá trình phát triển của nó không vì thế mà bị ngắt quãng. Mục tiêu của thiết quân luật là: nghiền nát Công đoàn Đoàn Kết và các cấu trúc khác của xã hội dân sự đang tìm cách xuất hiện; ngăn chặn quá trình tự tổ chức tiếp theo của xã hội; cưỡng đoạt lại độc quyền trong ‘không gian công’. Thiết quân luật đã không gặt hái được bất kì mục đích nào trong số đó. Luật nhà binh đã tìm cách hạn chế phạm vi tự tổ chức của xã hội bằng cách ngăn chặn sự tham dự của các tầng lớp mà trước đây vốn không tham gia, và ngăn chặn quá trình tự tổ chức tiếp theo ở mức độ cơ sở (phần lớn ở các vùng nông thôn hoặc các thị trấn nhỏ). Nó cũng tìm cách giới hạn phần lớn sự tham dự tích cực của công nhân (và các công dân khác) vào Công đoàn Đoàn Kết. Nỗ lực xóa sổ Công đoàn Đoàn Kết với tư cách là một tổ chức của công nhân và một phong trào xã hội đã thất bại. Nỗ lực tìm cách ngăn cản sự xuất hiện của các nhóm mới và khuynh hướng chính trị mới cũng thất bại. Nhiều nhóm mới đã xuất hiện và - mặc dù chúng không tiến hóa thành các tổ chức chính thức - chúng rất năng động và liên tục lôi kéo được nhiều thành viên và ủng hộ viên mới (ví dụ Phong trào Tự do và Hòa bình). Quá trình tái định dạng lực lượng đối lập theo hướng không chỉ dành riêng cho trí thức vẫn tiếp diễn. Ngược lại, quá trình phân hóa nội bộ, cái sẽ đưa đến tính đa nguyên thực sự, đạt được động năng sau khi có thiết quân luật. Nghịch lý thay, xét theo mặt này, hoàn cảnh hoạt động trái pháp luật và không chính thức tỏ ra có ích [cho lực lượng đối lập]. Các nhóm đối lập hoặc các báo chui - được lập ra bởi các thành viên của Công đoàn Đoàn Kết- bắt buộc phải quan hệ lỏng lẻo với giới lãnh đạo ngầm của Công đoàn. Vì thế, họ có thể dần phát huy một cách tự nhiên các định hướng [chính trị] đặc thù và đa dạng. Thái độ của giới lãnh đạo ngầm của Công đoàn Đoàn Kết, vốn ủng hộ các quan hệ lỏng lẻo và tự nguyện giữa các nhóm hoạt động ngầm, đã đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phân hóa nội bộ.

Quá trình hình thành nhóm tinh hoa thay thế, cả từ trí thức lẫn công nhân, đã đạt được động năng sau khi có thiết quân luật.

Chính quyền quân sự ít ra cũng thành công trong việc thủ tiêu không gian công. Tất nhiên, họ không bao giờ cưỡng đoạt lại được độc quyền về tuyên truyền và tự tin. Báo chí và xuất bản ngầm và không chính thức, cùng với báo chí chính thức của nhà thờ Công giáo La Mã, tiếp tục đóng vai trò định hình quan điểm và ảnh hưởng tới truyền thông chính thức. Điều này đã dẫn tới sự tổ chức lại gần như hoàn toàn ‘không gian công’ thông qua sự chuyển đổi ép buộc của truyền thông chính thức - thậm chí trước cả khi có quy định bắt đầu các cuộc đàm phán ‘bàn tròn’ và việc tái hợp pháp hóa Công đoàn Đoàn Kết. Tất nhiên, những diễn biến bên ngoài mặt trận báo chí - thí dụ các làn sóng bãi công khắp nơi trên đất nước Ba Lan và những thay đổi diễn ra tại Liên Xô- đã đóng vai trò vô cùng to lớn.

Trong giai đoạn sau ngày 13 tháng 12 năm 1981, đã diễn ra những thay đổi chính trị-xã hội thực sự tại Ba Lan. Chúng dẫn tới việc lằn ranh giữa tình trạng đặc trưng của ‘chủ nghĩa xã hội hiện tồn’ và diễn biến chính trị thích hợp bị vượt qua. Trong ‘chủ nghĩa xã hội hiện tồn’, chính trị là lĩnh vực của nhà chính quyền, và xã hội bị nguyên tử hóa chỉ còn có thể thích nghi với những hành vi của người thống trị theo cách bất định dạng (amorphous way). Diễn biến chính trị thích hợp bao gồm sự vận động của các cơ chế chính trị không bị kiểm soát bởi nhóm cầm quyền, mà nhóm này phải thích nghi với những vận động ấy. Các cơ chế chính trị đó ở Ba Lan trong những năm cuối thập kỷ 1980 bao gồm sự xuất hiện tự nhiên của các khuynh hướng chính trị đa dạng và các nhóm chính trị -có cơ sở từ những lực lượng xã hội, đấu tranh nhằm giành lấy sự ủng hộ rộng rãi hơn từ công chúng, và cạnh tranh với nhau nhằm tranh giành ảnh hưởng và sự công nhận của xã hội (mặc dù không nhất thiết nhằm gặt hái sự thống trị về chính trị trong cả nước).

Ví dụ về một quá trình chính trị thực thụ ở Ba Lan có thể được tìm thấy cả trong lực lượng đối lập và từ phía nhà nước. Với lực lượng đối lập, nó bao gồm việc thành hình lực lượng đối lập bên trong Công đoàn Đoàn Kết, sự xuất hiện các nhóm độc lập nhỏ hơn (như nhóm “Đoàn Kết tranh đấu”), sự xuất hiện của các lãnh tụ mới của giai cấp công nhân từ các cuộc đình công năm 1988, việc tổ chức nhiều nhóm đối lập nhấn mạnh rằng tính toàn vẹn chủ quyền của Ba Lan là ưu tiên hàng đầu của họ, và việc chia tách của đảng không chính thức, Đảng Xã hội Ba Lan. Trong khi quay lại chống chính phủ và chấp nhận quan điểm dân túy nhằm gặt hái càng nhiều ủng hộ càng tốt, các công đoàn chính thức đã cung cấp những bằng chứng về một quá trình chính trị thực thụ từ phía nhà nước, và các động thái mang tính giải phóng của hai đảng vệ tinh trong liên minh cộng sản cũng vậy. Những cơ chế chính trị đích thực này lẽ ra chẳng khi nào xuất hiện nếu không có sự xuất hiện ‘từ bên dưới’ của một xã hội dân sự độc lập. Xã hội dân sự này có khả năng gây áp lực lên giới cầm quyền -thí dụ qua các cuộc đình công- và do đó tạo ra được cơ sở xã hội thực thụ mà các nhân vật chính trị phải cạnh tranh để giành lấy. [1]

Sự chuyển đổi chính trị-xã hội phân tích ở đây diễn ra khi [sự tồn tại của] lực lượng đối lập và các nhóm khác vẫn bị coi là bất hợp pháp và vì thế vẫn thiếu cơ hội để vận hành một cách bình thường. Tình huống này khuyến khích sự xuất hiện của các hiện tượng bệnh hoạn và được các nhà cầm quyền xúi bẩy và khai thác. Một là, việc ‘tinh hoa hóa’ giới đối lập trở thành một chiến lược của giới cầm quyền. Giới lãnh đạo của Công đoàn Đoàn Kết bị dồn tới một tình huống rất giống với tình huống của giới nomenklatura của Đảng [là cơ chế cử ra các nhân vật chủ chốt trong chính phủ và các tổ chức khác của bộ máy dựa trên danh sách các ‘nhân vật then chốt’ và những người có đặc ân chính trị-ND]. Họ buộc phải ra quyết định một cách tùy tiện và lập ra các bộ máy cho công đoàn bằng cách đề bạt và chỉ định, vì cả các kỳ bầu cử lẫn bất cứ một quá trình dân chủ nào đều không khả thi. Quá trình này có thể dẫn tới sự xói mòn tính chính đáng của nhóm lãnh đạo được bầu. Ở một mức độ nào đó, sự xói mòn này đã diễn ra. Việc những người đối lập trong nội bộ Công đoàn Đoàn Kết và các công đoàn chính thức dùng cụm từ “giới nomenklatura của Công đoàn Đoàn Kết’ cũng là một ví dụ cho sự xói mòn ấy. Vì các lãnh đạo của Công đoàn Đoàn Kết không phải là các nomenklatura áp đặt, mà là những người được bầu ra thông qua bầu cử tự do, và là đại diện chân chính của một bộ phận cực lớn trong công chúng, giới lãnh đạo của Công đoàn đã thoát được nguy cơ đánh mất cơ sở xã hội của mình. Tuy nhiên, các mối quan hệ trong tương lai giữa giới lãnh đạo ‘Công đoàn Đoàn Kết già’ và công nhân, đặc biệt là những người trẻ, có thể sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực. Chính quyền cũng hi vọng –và đã cố xúi bẩy- sự chia rẽ của Công đoàn Đoàn Kết và đấu tranh bè phái trong nội bộ. Sự chia rẽ này đã xảy ra. Như chúng tôi đã cố gắng chỉ ra, đấy là sự phát triển tự nhiên trong một quá trình chính trị thực thụ. Tuy nhiên, các kết quả của nó phụ thuộc vào các cơ chế điều hòa, vốn chưa sẵn có. Chúng cũng phụ thuộc vào vị trí mà các biến thể đối lập này (vốn chưa được hợp pháp hóa trước kỳ bầu cử bán-tự do tháng Sáu năm 1989) sẽ nắm giữ trong hệ thống thể chế mới. [2]


Các mô hình chuyển đổi của Ba Lan và Hungary

Trong cuốn sách viết năm 1988, Szelenyi định nghĩa sự khác biệt căn bản giữa hai mô hình là sự tư sản hóa của Hungary và việc tự tổ chức ra xã hội dân sự chính trị của Ba Lan:

Trong khi người Hungary trong thập kỷ cuối này đã cùng tìm đường đến với sự tự trị bằng cách mở rộng nền kinh tế thứ hai (theo một nghĩa nào đấy, theo đuổi chiến lược cá nhân), người Ba Lan đương đầu trực tiếp với cấu trúc quyền lực trong không gian chính trị, thông qua các công đoàn lao động, Ủy ban Bảo vệ Công nhân (KOR), các tổ chức chính trị, và hoạt động tập thể.

Ông cũng viết thêm rằng:

Nếu dân chủ là mục tiêu, thì người Hungary đã đi theo con đường từng được biết đến trong lịch sử. Ngay cả ở phương Tây, tinh thần kinh doanh có trước và dân chủ theo sau. Người Ba Lan đã thử một con đường không khả thi: bắt đầu bằng sự thay đổi chính trị. Thực ra, ‘con đường Hungary’ xứng đáng được quan tâm về mặt lý thuyết hơn với sự sụp đổ của cuộc thí nghiệm Ba Lan (dù rằng còn khá vội vã khi nói về sự ‘sụp đổ’: đến mùa hè 1987, đã 5 năm thiết quân luật được áp dụng mà bất đồng chính kiến Ba Lan vẫn không bị đánh quỵ’. [3]

Chúng tôi đồng ý với Szenlenyi ở chỗ nhấn mạnh rằng hoạt động kinh tế, trong tương quan đối lập với sự tự tổ chức của xã hội quanh những giá trị cơ bản và các mục tiêu chính trị-xã hội đã cấu thành những khác biệt căn bản giữa Hungary và Ba Lan trước sự sụp đổ của hệ thống chủ nghĩa cộng sản. Tuy nhiên, còn có những khác biệt khác cần phải kể ra. Mô hình Hungary -về lý thuyết và thực tiễn- không chỉ là mô hình tập trung vào kinh tế, mà còn là mô hình tập trung vào bất đối kháng. Nó dựa trên sự cộng tác giữa các lãnh đạo cải cách của đảng-nhà nước và các trí thức có khuynh hướng cải cách. Từ giữa thập kỷ 1960, các trí thức phê phán chứ không phải đối lập đã tập trung nỗ lực của họ vào việc gây áp lực lên giới lãnh đạo để đòi tiến hành các cải cách kinh tế từ bên trên -và trong những năm 1980- đòi chuyển giao nhiều quyền lực hơn cho nhóm cải tổ trong đảng. Trong những năm 1988-1989, họ gây áp lực lên nhóm cầm quyền tinh hoa đòi thể hiện cải tổ chính trị kèm theo cải tổ kinh tế sâu rộng hơn nữa từ bên trên. Mục tiêu của hầu hết các chiến lược của trí thức Hungary là nhằm xây dựng ‘xã hội thứ hai’, nhưng tránh các phong trào xã hội rộng lớn kiểu Công đoàn Đoàn Kết. Họ muốn xã hội dân sự Hungary được thành hình từng bước qua quá trình tư sản hóa. [4] Nỗ lực của họ ít nhất là cũng đã thành công một nửa (trong các năm cuối thập kỷ 1960 và đầu 1989).

‘Kịch bản đại liên minh’ mà Hankiss phát triển có 3 tính chất tiêu biểu cho phần lớn các kịch bản đột phá mang tính dự đoán-chuẩn tắc về chuyển đổi của Hungary. Đó là trọng tâm kinh tế, bất đối kháng và tập trung vào tinh hoa. Nó dựa trên 2 giả định mạnh và liên quan tới nhau: Giả định thứ nhất là những người cộng sản không bao giờ từ bỏ quyền lực (ít ra là trong tương lai khả đoán). Thứ hai là, con đường duy nhất và nên thực hiện để chuyển đổi hệ thống là thay đổi tính chất của nhóm cộng sản tinh hoa cầm quyền, thay vì thay thế nó. Hai giả định này dẫn tới chuỗi lập luận sau: Nhóm cầm quyền tinh hoa sẽ chấp nhận đổi mới hoặc thậm chí chuyển đổi hệ thống kinh tế và chính trị chỉ khi nào họ bị thuyết phục rằng họ không bị tước mất quyền lực khi tiến hành sự chuyển đổi này, và họ có khả năng chuyển quyền lực mà mình đang sở hữu trong hệ thống cũ thành một dạng quyền lực mới trong hệ thống mới. Theo Hankiss, tất cả những mục tiêu này đều có thể đạt được bằng cách lập ra một đại liên minh. Đại liên minh này sẽ bao gồm các nhóm xã hội sau:

  1. Các tầng trên và cận trên của tập đoàn đầu sỏ trong đảng;
  2. Các tầng trên và cận trên của bộ máy hành chính quan liêu nhà nước;
  3. Lãnh đạo các công ty lớn và vừa trong các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ;
  4. Tầng lớp thương gia mới.
Theo Hankiss, không nên ngăn cản sự thành lập và các lợi ích của một liên minh như vậy, vì đó là cách duy nhất để chuyển đổi ‘quyền lực bắt đầu của nhóm cầm quyền tinh hoa, vốn mang tính hủy diệt và nguy hại cho xã hội trong chế độ cũ… thành quyền lực ít hiểm nguy, thậm chí đắc dụng trong chế độ mới’. Các quan hệ gia đình và thân tộc là có lợi cho ‘chuyển đổi êm thấm’, vì chúng có thể giúp chuyển đổi nền tảng quyền lực của nhóm cộng sản cầm quyền tinh hoa từ quyền lực tập đoàn chuyên chế áp đặt lên nền kinh tế nhà nước thành quyền lực giai cấp dựa trên sở hữu tư nhân. Theo cách nói của ông: ‘những mất mát quyền lực hành chính của người bố có thể được đền đáp xứng đáng bằng quyền lực kinh tế và sự giàu có của gia đình’, nếu con trai ông ta là đại diện cho phía Hungary trong một công ty Tây phương và vợ ông sở hữu một shop thời trang tại Budapest. [5] Kịch bản đại liên minh là một dự án xây dựng một giai cấp lãnh đạo giàu có dựa trên giai cấp cộng sản lãnh đạo cũ. Sự hình thành xã hội dân sự, theo kịch bản này, bị đẩy lùi vào tương lai xa - sau khi có sự xuất hiện và củng cố của giai cấp lãnh đạo mới và sau khi có sự tư sản hóa xã hội Hungary. Bản chất của nó là sự lặp lại quá trình xuất hiện các xã hội dân sự Tây phương, mặc dù dưới các điều kiện khác. Giống như các trí thức và các nhà cải cách khác, Hankiss nghĩ rằng sự xuất hiện một xã hội dân sự như ở Ba Lan sẽ là mối nguy cho ‘chuyển đổi êm thấm’ và vì thế, nên tránh.

Chiến lược đối lập Ba Lan được chấp nhận trong những năm 1970 bởi KOR và các nhóm độc lập khác cũng không phải là đối kháng, như những gì các lãnh tụ trí thức đối lập đã cho thấy. [6] Tuy nhiên, sự đối kháng lại xảy ra giữa công nhân và bộ máy cầm quyền, và các lực lượng xã hội đích thực đã được tiếp sức và trở nên năng động về chính trị. Vì thế, đến lượt nó, mọi chiến lược được sử dụng bởi lực lượng đối lập buộc phải thích nghi với tình hình đã thay đổi và với các lực lượng xã hội đang hoạt động trên đấu trường chính trị và xã hội. Hơn nữa, vì cải cách kinh tế từ bên trên không bao giờ được thực hiện tại Ba Lan. Cách duy nhất để thúc đẩy điều này là áp lực của đám đông từ bên dưới. Áp lực như thế được gây ra bởi Công đoàn Đoàn Kết và đối lập Công đoàn Đoàn Kết trước và sau khi có thiết quân luật.

Mô hình tiền-đột phá về chuyển đổi của Ba Lan, được hiểu là một logic của vận động lịch sử, có tính trọng tâm-chính trị và một mặt nào đó, mang tính đối kháng, mặc dầu sự đối kháng này bị hạn chế bởi cả hai bên. Không chỉ Công đoàn Đoàn Kết có tính chất của một cuộc cách mạng tự-hạn chế, mà chế độ độc tài quân sự của Jaruzelski cũng là một nền độc tài tự-hạn chế. Không ai tin -cho đến khi có sự ra đời của chính phủ Mazowiecki- rằng nhóm cộng sản cầm quyền có thể bị thay thế. Tuy nhiên, rất ít người thực sự tin rằng nó có thể được chuyển đổi thành một nhóm cầm quyền có ích về mặt xã hội trong một hệ thống mới, cho dù những kế hoạch như thế đã được nêu ra bởi những người tân-bảo thủ và tân-tự do cấp tiến. [7] Tâm lý phổ biến nhất là cho rằng: lựa chọn duy nhất tồn tại là gây áp lực lên giới cộng sản cầm quyền đòi ‘bên xã hội’ đại diện bởi Công đoàn Đoàn Kết phải có ảnh hưởng, ít ra là ở mức độ nào đó, tới cách điều hành đất nước. Đặc điểm chính của mô hình Ba Lan -như chúng tôi đã cố miêu tả- bao gồm sự hiện diện của chuỗi hoạt động chính trị và xã hội của xã hội dân sự, theo cách yêu hiện đại hoặc tân-Gramsci mà chúng tôi sử dụng trong bài viết này.

Mô hình hay con đường Ba Lan đã bị chỉ trích và phủ nhận, chủ yếu vì nó bị cho là thiếu thực tế. Không có ai (kể cả tác giả của bài viết này) đoán được rằng nhóm cộng sản cầm quyền sẽ đến một lúc nào đó, phi độc quyền hóa và chia sẻ quyền lực chính trị của họ - thậm chí chỉ một phần - với các đối thủ có tổ chức, những nhóm được hưởng sự ủng hộ của các lực lượng xã hội đích thực ở tầng cơ sở. Áp lực không chính thức của trí thức, không có sự ủng hộ ở tầng cơ sở hoặc thậm chí không có nhiều liên lạc với xã hội nói chung, có vẻ như có hiệu quả hơn nhiều, ít ra là nó đã chứng tỏ được điều này trong suốt 20 năm thành công ở Hungary. Mô hình Hungary được dựa trên tình hình chính trị và xã hội nội sinh, như tôi đã cố diễn giải. Tuy nhiên, trên mức độ lý thuyết-chuẩn tắc, nó đã được lập ra như là một lựa chọn thực tế đối ngược lại với lựa chọn phi thực tế của Ba Lan.

Về dài hạn và trong các tình huống đã thay đổi, mô hình Ba Lan tỏ ra thực tế không kém. Cải cách chính trị thực hiện từ bên trên [ở Hungary] và những cải cách được ký kết trong bản thỏa thuận giữa các đối tác tại ‘bàn tròn’ vào tháng Năm 1989 ở Ba Lan là rất gần gũi nhau. Cả hai cam kết rằng các cuộc bầu cử tiếp theo sẽ nửa-tự do, với việc các ứng viên độc lập hoặc đối lập có cơ hội để lấy đủ số ghế cho phép họ có ảnh hưởng đến cách cai trị đất nước. Cả hai hứa hẹn các cuộc bầu cử sẽ hoàn toàn tự do trong 4 năm tiếp theo. Đảng cộng sản của cả hai nước quyết định chia sẻ quyền lực và trách nhiệm, hi vọng sẽ kiểm soát được tình hình.

Nói chung, vào tháng Năm 1989, đang tồn tại hai mô hình chuyển đổi tới ‘nền dân chủ nghị viện thị trường xã hội chủ nghĩa’-mô hình Ba Lan, bao gồm sự thích nghi của xã hội dân sự đang tồn tại với cấu trúc hệ thống chính thức đã bị thay đổi (hoặc ít ra là đang thay đổi), và mô hình Hungary, bao gồm việc lấp đầy khung thể chế được tạo ra từ bên trên với một xã hội dân sự đang thành hình.


Kết luận

Từ mùa xuân 1989, lịch sử Đông Âu đã đạt được động năng còn lớn hơn trước nhiều. Cuộc bầu cử nửa-tự do ở Ba Lan đem lại một chiến thắng rộng lớn cho Công đoàn Đoàn Kết đối lập và một thất bại thê thảm cho liên minh cộng sản, nhóm đã thất bại trong việc lập ra chính phủ mới, dù cho đã bảo đảm được đa số hình thức trong nghị viện. Chính phủ không-cộng sản đầu tiên được thành lập trong khối Xô viết đã ra đời ở Ba Lan. Phản ứng của nhà nước Xô viết, trước một diễn tiến không tin nổi như thế, đã bị thử thách. Kết quả của cuộc thử thách này là nỗi sợ về sự can thiệp của nhà nước Xô viết thôi không còn đóng vai trò quyết định trong quá trình chuyển đổi tiếp theo ở Đông Âu. Giai đoạn cuối cùng của quá trình giải thể hệ thống cộng sản đã được châm ngòi, và hiệu ứng domino sẽ theo sau.

Nhóm cải cách trong đảng cộng sản Hungary có phản ứng trước tiên. Nó quyết định tìm kiếm quyền lực qua bầu cử tự do với toàn bộ tài sản vốn đã đem lại cho Công đoàn Đoàn Kết thắng cử (giới thiệu các kỳ bầu cử tự do, bản thân nó, cũng là một tài sản đầy sức mạnh). Chiến lược của họ tịt ngòi - bầu cử tự do đưa đến cho họ thất bại thảm hại.

Cả Ba Lan và Hungary, cũng như các quốc gia Đông Âu khác, bước vào giai đoạn hai của chuyển đổi - nơi họ phải đối đầu với nhiệm vụ xây dựng các hệ thống chính trị, xã hội và kinh tế mới và có thể đứng vững. Ở Ba Lan, ‘xã hội dân sự chính trị chống lại nhà nước’ đã đóng vai trò của mình trong việc làm xói mòn hệ thống cộng sản từ bên trong. Một phần đáng kể của nó đã trở thành lực lượng thống trị trong nhà nước và đang dẫn đầu quá trình đầy khó khăn hướng tới sự chuyển đổi tận gốc rễ nhà nước này. Ở Hungary, xã hội dân sự đang tự tổ chức một cách mau chóng đang lấp đầy và chuyển đổi khung thể chế cho sự tồn tại của nó vốn được tạo ra từ trước bởi các nhà cộng sản cải cách.

Dù mô thức là gì - trừ phi có bạo động cách mạng hoặc sự can thiệp của Liên xô, các xã hội dân sự mới này, vận động trong các nước được coi là của chính họ, sẽ dần xuất hiện tại các quốc gia này. Một số nhà nghiên cứu tin rằng chúng sẽ theo kiểu Hegel. Theo chúng tôi, có nhiều khả năng là chúng sẽ trở thành các xã hội dân sự của kiểu hậu-cộng sản đặc biệt, cái mà hình thù của nó sẽ được định dạng qua một quá trình lâu dài và đầy đau đớn. Các con đường mà trong đó lịch sử tiền-đột phá của các xã hội dân sự trong các nước Đông Âu cụ thể sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển tiếp theo của chúng là một chủ đề vô cùng hấp dẫn cho các nghiên cứu tiếp theo.

Duy Tân Trẻ giữ bản quyền bản dịch tiếng Việt.



[1]Hai tháng sau khi bản đầu tiên của bài viết này hoàn thành, phe đối lập do công đoàn Đoàn Kết lãnh đạo đã thắng cuộc bầu cử, thành lập chính quyền không cộng sản đầu tiên ở Đông Âu và trở thành lực lượng chính trị áp đảo ở quốc gia này.
[2]Dưới chính quyền không cộng sản mới, các cơ chế dân chủ cho đối thoại dần dần được xây dựng. Các nhóm đối lập chính trị vốn không được hợp thức hóa trước tháng Sáu 1989 không tham gia vào Quốc hội và từ đó họ đang hoạt động như là đối lập ngoài nghị viện để chuẩn bị cạnh tranh trong các cuộc bầu cử tự do sắp tới.
[3]Ivan Szelenyi, Social Entrepreneurs (Madison; WI: The University of Wisconsin Press, 1988) pp. 57-58.
[4]Hankiss, 'The "Second Society" ...; Hankiss, East European Alternatives...; Szelenyi, 'The Prospects and Limits of the East European New Class Project: An Auto-critical Reflection on the "Intellectuals, on the Road to the Class Power", Politics and Society, 15, 2, 1987; Szelenyi, Social....
[5]Hankiss, East European Alternatives... p. 393
[6]See for example: Kuron; Lipski; Adam Michnik, Szansa polskiej demokracji (London: Aneks, 1984); Adam Michnik, Takie czasy... Rzecz o kompromisie (London: Aneks, 1985).
[7]Miroslaw Dzielski, Duch nadchodzacego czasu, Part I (Krakow: Wydawnictwo '13', 1981).
Nguồn: Soviet Studies, Vol. 42, No. 4 (Oct., 1990), 759-777.